Lời tiên tri cho nước Nga bởi Hudson Taylor

Article Index

james-hudson-taylorHudson Taylor (1832 – 1905) luôn được coi là một trong số những nhà truyền giáo vĩ đại nhất. Sinh ra vào năm 1832, năm 21 tuổi ông đã rời nước Anh mà lên đường đến Trung quốc. Hơn 50 năm đời mình ông đã hiến dâng cho việc truyền giảng Tin lành cho đất nước này. Ông sáng lập hội truyền giáo Trung hoa lục địa, và cũng là người đầu tiên có ý tưởng đi sâu vào các địa phương để truyền giáo. Trong cả quãng thời gian dài phục vụ tại Trung quốc, ông cũng quay về nước Anh vài lần để nghỉ ngơi và chia sẻ về công việc Chúa. Trong một chuyến đi về như vậy, khi đang giảng tại một Hội thánh nước Anh, thình lình Thánh linh của Đức Chúa Trời giáng xuống trên ông, và Chúa đã cho ông thấy một khải tượng về những điều sẽ xảy đến trong tương lai.

Hudson Taylor có một thói quen ghi chép lại những trải nghiệm mình trong quyển nhật ký, và ông kể lại rằng trong buổi nhóm đặc biệt kia có sự mặc khải (sự bày tỏ) từ Chúa đến bất ngờ đang trong lúc ông giảng. Ông ngừng lại rồi giảng tiếp, thì khải tượng đó lại đến lần thứ hai, và ông phải im lặng hồi lâu. Ông biết rằng ông phải truyền đạt lại sứ điệp từ Chúa đó cho hội chúng. Sau này, khi nhiều nhà truyền giáo được biết đến lời tiên tri của Hudson Taylor và chia sẻ về nó, họ đã gặp những nhân chứng từng có mặt trong buổi nhóm đặc biệt kia khẳng định về điều họ cũng đã được nghe.

Tôi đã thấy một khải tượng (giấc mơ, sự hiện thấy). Trong khải tượng đó tôi thấy một cuộc đại chiến sẽ bao trùm cả thế giới. Tôi thấy cuộc chiến này ngừng lại, rồi sau đó lại bắt đầu, thực tế thành hai cuộc chiến tranh. Sau điều đó, tôi đã thấy có nhiều sự hỗn độn và loạn lạc, chúng sẽ ảnh hưởng đến nhiều dân tộc. Tôi đã thấy ở một số nơi sự thức tỉnh tâm linh (phấn hưng). Tại nước Nga, tôi đã thấy một sự phấn hưng chung sẽ đến, bao trùm cả dân tộc, vĩ đại đến mức sẽ chẳng bao giờ có gì giống như vậy. Từ nước Nga, tôi thấy sự phấn hưng lan truyền đi nhiều nước Châu Âu. Sau đó tôi đã thấy một sự phấn hưng toàn cầu, và sau đó là sự Trở lại của Đấng Christ.

Lời tiên tri Chúa ban cho Hudson Taylor vào những năm cuối thế kỷ 19 đã tiên báo chính xác những gì xảy đến trong thế kỷ 20.

 

Thời kỳ đại chiến:

Đại chiến thế giới lần thứ nhất (1914-1918) đã cướp đi sinh mạng hơn 15 triệu người của các nước Châu Âu, Châu Phi, Trung Đông và Trung quốc, và còn làm cho hơn 60 triệu người khác bị thương. Khác với các cuộc chiến tranh trước đó giữa các nước và nhiều nước, đại chiến thế giới đặc biệt về thời gian, quy mô, sự tàn khốc và sức hủy diệt. Nó còn làm kiệt quệ những nước tham gia. Cuộc đại chiến đã khiến bốn đế quốc, trong đó có đế quốc Nga phải sụp đổ, ngay cả khi quân đội đang còn chiến đấu.

Đại chiến thế giới lần thứ hai (1939-1945) còn lớn hơn và dữ dội hơn nhiều so với đại chiến thế giới lần thứ nhất. Với 62 quốc gia trực tiếp tham gia (80% dân số thế giới), cuộc đại chiến này đã diễn ra trên ba châu lục và bốn đại dương. Tổng số người chết lên tới khoảng 60 triệu người, chỉ riêng nước Nga thiệt hại về người (cả lính và dân thường) đã chiếm gần một nửa (con số chính thức năm 1993 là gần 27 triệu).

Cho đến bây giờ, các nhà sử học vẫn còn chưa thống nhất về thời điểm bắt đầu và nguyên nhân chính của cuộc chiến thế giới lần thứ hai. Tài liệu tiếng Việt trên wikipedia nói: “Các nguyên nhân cuộc chiến được nêu ra thì có nhiều và là một đề tài đang được tranh cãi, trong đó có Hòa ước Versailles, khủng hoảng kinh tế toàn cầu, chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa quân phiệt. Cũng chưa có sự thống nhất trong việc tính ngày bắt đầu cuộc chiến: một số người cho rằng đó là khi Đức  xâm lược Ba Lan vào ngày 1 tháng 9 năm 1939, một số người khác tính ngày Nhật Bản xâm lược Trung Quốc vào ngày 7 tháng 7 năm 1937, còn một số khác thì tính vào một ngày còn sớm hơn nữa: ngày Nhật xâm lăng Mãn Châu vào năm 1931. Cũng một số người khác cho rằng hai thế chiến chỉ là một cuộc chiến được chia ra bởi một cuộc ngừng bắn.”

So sánh với những lời tiên tri của Hudson Taylor được ghi lại, chúng ta thấy hoàn toàn phù hợp:

“Trong khải tượng đó tôi thấy một cuộc đại chiến sẽ bao trùm cả thế giới. Tôi thấy cuộc chiến này ngừng lại, rồi sau đó lại bắt đầu, thực tế thành hai cuộc chiến tranh.”

 

Thời kỳ hỗn độn và loạn lạc

Tiếp theo hai cuộc đại chiến, là giai đoạn hỗn độn mà tiêu biểu là sự đối đầu giữa các đại cường quốc, và chiến tranh lạnh giữa họ đã xúc tiến cho sự loạn lạc trên thế giới qua các cuộc chiến tranh khác nữa, như cuộc chiến Đông dương giữa Pháp với các lực lượng giải phóng dân tộc Đông dương (1946-1954), chiến tranh Triều tiên giữa hai miền Bắc Triều tiên và Nam Triều tiên (1950-1953), chiến tranh Việt nam (1959-1975), nội chiến Campuchia và xung đột biên giới với Việt nam (1975-1989), xung đột biên giới Trung quốc – Việt nam (1979), các cuộc chiến tại Trung đông (Cuộc chiến sáu ngày 10-1967, cuộc chiến ngày Yomkipur – 10-1973, nội chiến ở Li-băng 1975-1990, chiến tranh I-ran - I-rắc 1980-1988), cuộc chiến quần đảo Falklands giữa Anh và Ác-hen-ti-na. Nội chiến tại Áp-ga-nis-tan với sự sa lầy của Liên xô (1979-1989); xung đột giữa I-rắc và Kuwait (1990) dẫn đến chiến tranh vùng Vịnh Péc-xích với sự tham gia của Liên hiệp quốc năm 1991; xung đột vũ trang ở Kô-xô-vô (1998-1999) dẫn đến sự tham gia của Liên hiệp quốc năm 1999. Cùng thời gian đó ở tại nước Nga diễn ra hai cuộc chiến tranh ở Chechnya lần thứ nhất (1994-1996) và lần thứ hai (1999-2000). Chiến tranh tiếp tục ở Áp-ga-nis-tan từ 2001 đến tận ngày nay. Song song với nó là chiến tranh I-rắc từ 2003 đến nay.

Ngoài các cuộc chiến tranh quy mô, chủ nghĩa khủng bố dần lớn mạnh và trở một nan đề lớn với thế giới hiện đại. Sự bạo động và đổ máu do khủng bố diễn ra khắp nơi, ngay tại các thủ đô trung tâm của các cường quốc. Không có nơi nào con người thế giới hiện đại cảm thấy được an toàn cả.

Những điều chúng ta thấy ngày hôm nay đã tìm thấy hình ảnh trong lời tiên báo trước đó cả thế kỷ: “Sau điều đó, tôi đã thấy có nhiều sự hỗn độn và loạn lạc, chúng sẽ ảnh hưởng đến nhiều dân tộc.” Cho đến hiện nay, những sự căng thẳng và náo loạn tiếp tục bùng lên từ hết địa điểm này đến địa điểm khác.

Những chi tiết đã ứng nghiệm trong lời tiên tri này khiến chúng ta càng sẵn lòng lắng nghe sứ điệp chính Chúa muốn truyền đạt, về sự phấn hưng thời nay. Vì Đức Chúa Trời chưa làm điều gì nếu chưa báo trước cho các tôi tớ Ngài.


“Tôi đã thấy ở một số nơi sự thức tỉnh tâm linh”

Trong thế kỷ hai mươi, sau hai cuộc đại chiến, đã xảy ra nhiều cuộc phấn hưng kỳ lạ, khi Thánh linh của Đức Chúa Trời thăm viếng nơi này nơi khác, và dân cư cả vùng đó được bừng tỉnh và ăn năn tin nhận Chúa trong sự biểu hiện của dấu kỳ phép lạ. Đó là những cuộc phấn hưng vùng đảo Hebrides ở Scốt-len bắt đầu từ năm 1949 chỉ với hai người phụ nữ tuổi ngoài 80 cầu nguyện mà phấn hưng cả vùng, ở Ác-hen-ti-na bắt đầu từ năm 1951 và những năm sau đó, với điểm nhấn là chính tổng thống của nước này được Chúa chữa lành tức khắc qua sự cầu nguyện của giáo sĩ, và những sân vận động lớn nhất thủ đô đã được dành để rao giảng Tin lành của Đức Chúa Trời.

Rồi cơn phấn hưng kỳ diệu tại quần đảo Đông Timo thuộc Malaysia bắt đầu từ tháng Chín năm 1965 đã bùng nổ thành phong trào truyền giáo với gần 100 nhóm truyền giảng, họ được chứng kiến những phép lạ nước biến thành rượu, đi bộ qua sông, người chết sống lại. Bất ngờ sau đó là Đức Thánh Linh thăm viếng một buổi nhóm như thường lệ của các sinh viên tại Wilmore, Kentucky (Asbury College) và họ đã không thể ngừng lại được, qua buổi nhóm phấn hưng kéo dài 185 giờ liên tục đó hàng ngàn người đã ăn năn tin Chúa và cả vùng đã được phấn hưng.

Tại Cam-pu-chia, Đức Chúa Trời cũng thăm viếng đặc biệt năm từ 1973 cho đến 1975, với một giáo sĩ trẻ 23 tuổi, đến thăm Pnompenh chỉ với visa trong một tuần, đã trở thành một đợt phấn hưng với nhiều phép lạ chữa lành đuổi quỉ và đã kịp sanh ra một mạng lưới Hội thánh tư gia trước khi chính quyền thay đổi.

Dưới đây là danh sách những cuộc phấn hưng trong giai đoạn tiếp theo sau đó (theo Geoff Waugh - Flashpoints of Revival)

Hậu Thế kỷ XX

1975 - Tháng Tư - Gaberone, Botswana (Reinhard Bonnke)

1977 - Thứ năm 10 Tháng Ba - Quận Min, Papua New Guinea (Lord Wapnok)

1979 - Thứ tư ngày 14 tháng 3 - Elcho Island, Australia (Ginijini Gondarra)

1980 - Chủ Nhật 11 - Tháng Anaheim tại Los Angeles (John Wimber)

1980 - Nam Phi (Rodney Howard-Browne)

1984 - Thứ Năm ngày 14 Tháng 6 - Brugam, Papua New Guinea (Ray Overend)

1988 – Tỉnh bBắc quần đảo Solomon, Papua New Guinea (Jobson Misang)

1988 - Thứ Năm ngày 04 tháng 8 - Kambaidam, Papua New Guinea (Johan van Bruggen)

1988 - Madruga

1989 - Hà Nam và Anhul, Trung Quốc

Thập kỷ cuối cùng của Thế kỷ XX

1992 - Buenos Aires, Argentina (Claudio Friedzon)

1993 - Chủ Nhật 2 - Tháng Brisbane, Australia (Neil Miers)

1994 - Thứ Năm 20 Tháng 1 - Toronto, Canada (John Arnott, Randy Clark)

1994 - Chủ Nhật ngày 29 tháng 5 - Brompton, London (Eleanor Mumford)

1994 - Chủ Nhật 14 tháng 8 - Sunderland, Anh (Ken Gott)

1995 - Chủ Nhật 1 tháng 1 - Melbourne, Florida (Randy Clark)

1995 - Chủ Nhật 15 tháng 1 - Modesto, California (Glenn và Berteau Debbie)

1995 - Tháng Một - Pasadena, California (John Arnott)

1995 - Chủ Nhật 22 tháng 1 - Brownwood, Texas (Revivals College)

1995 - Chủ Nhật ngày 18 tháng 6 - Pensacola, Florida (Steve Hill)

1995 - Thứ sáu ngày 27 tháng 10 - Mexico (David Hogan)

1996 - Chủ Nhật ngày 20 Tháng Mười - Houston, Texas (Richard Heard)


Và điều gì phải đến?

Tại nước Nga, tôi đã thấy một sự phấn hưng chung sẽ đến, bao trùm cả dân tộc, vĩ đại đến mức sẽ chẳng bao giờ có gì giống như vậy. Từ nước Nga, tôi thấy sự phấn hưng lan truyền đi nhiều nước Châu Âu. Sau đó tôi đã thấy một sự phấn hưng toàn cầu, và sau đó là sự Trở lại của Đấng Christ.

Phù hợp với khải tượng mà Hudson đã thấy, từ khi “bức tường sắt” bất ngờ sụp đổ, vào đầu những năm 90 của thế kỷ trước, Tin lành của Đức Chúa Trời được tự do rao giảng đã sản sinh cuộc thức tỉnh tâm linh rộng lớn bao trùm khắp nước Nga và các nước cộng hòa Liên bang Xô viết cũ. Các Hội thánh mới mọc lên khắp nơi và những con người ăn năn quay trở về với Đức Chúa Trời. Một yếu tố quan trọng nữa vì sao nước Nga có tên trong chương trình của Đức Chúa Trời, chính là cộng đồng người Do-thái đông đảo ở đây. Sự phấn hưng của dân tộc Y-sơ-ra-ên đang mới chỉ bắt đầu, và những người Do-thái từ Nga quay về quê hương Y-sơ-ra-ên đang chính là nhân tố phục hưng tại miền đất hứa. Hiện nay nhiều Hội thánh ở Y-sơ-ra-ên với những người Do-thái thực sự tin nhận Chúa Jê-sus là Đấng Mê-si của mình là những người từ Nga hồi hương.

Từ nước Nga, sự phấn hưng thời gian qua còn lan truyền đến nhiều nước Châu Âu, và Chúa cũng không bỏ quên cộng đồng người Việt ở tại đây, vì đó là chương trình của Ngài đã đưa nhiều người không hề có cơ hội được nghe đến Tin lành ở quê hương sang nước Nga để học tập và làm ăn sinh sống. Ở đây họ được gặp Chúa Jê-sus, được đổ đầy lửa Thánh Linh và ở đây Ngài khiến họ trở nên những tay đánh lưới người.

Từ các thành phố lớn nơi có cộng đồng người Việt đông đảo như Mátxcơva, Kiev, Kharcốp, nhiều người đã tiếp nhận Tin lành của Chúa Jê-sus và trở về Việt nam để hiện nay đang mang nhiều kết quả cho nước Đức Chúa Trời. Có thể nói là những con cái Chúa từ Nga quay về đã góp phần không nhỏ trong sự phấn hưng đang diễn ra tại Việt nam, đặc biệt là các tỉnh miền Bắc.

Phấn hưng là khi Đức Chúa Trời cử Thánh Linh thăm viếng Hội thánh Ngài một cách rõ ràng, qua sự giục lòng dân sự cầu nguyện và truyền giảng Tin lành, bằng dấu kỳ phép lạ và sự động chạm đến các tội nhân, Chúa khiến họ đồng loạt ăn năn và trở về với Ngài mà được cứu rỗi. Như chúng ta thấy, trong lời tiên tri Chúa đã phán qua Hudson Taylor, báo trước về những cuộc phấn hưng địa phương đang xảy ra khắp mọi nơi trên thế giới sẽ hòa thành một sự bừng tỉnh tâm linh toàn cầu, và sau đó sẽ là sự trở lại của Đấng Christ.

Maranatha! Chúa ơi, xin hãy đến!

 

(Q.H. st và dịch)



© 1999-2017 Tinlanh.Ru