Tiến lên với khải tượng

Article Index

Nửa năm đầu tiên ở Ma-ni-la quả là thật sự khó khăn. Đến cuối giai đoạn đó tôi vẫn còn dừng ở điểm số không như trước. Tôi nghĩ rằng mình có thể làm được ở đây những điều như mình đã làm ở Saut-Bend, nhưng chẳng có việc gì kết quả cả. Tôi có được những người mới cải đạo, nhưng khi tôi tìm cách giúp đỡ họ lớn lên trong đức tin, thì nhất định là họ cho tôi những địa chỉ giả, và có lẽ là những tên giả nữa.
Điều hiển nhiên là chúng tôi sẽ không bao giờ xây dựng được Hội Thánh mạnh mẽ và sống động với những nhân sự địa phương, nếu như chúng tôi không tìm được một địa điểm khác cho Hội Thánh. Tôi bắt đầu tìm kiếm một mảnh đất ở trung tâm thành phố, nơi mà có thể xây đựng được Hội Thánh, cho dù chính tôi còn chưa có dân sự của mình. Tôi vẫn tin chắc rằng Đức Chúa Trời sai tôi đến để xây dựng một trung tâm Tin lành lớn. Nó sẽ phải trở thành một toà nhà chính yếu nhất của Ma-ni-la trên nền các toà nhà của chính phủ, và vì thế nên tôi cần phải có một mảnh đất phù hợp.
Tại ngã tư giữa đại lộ Taft và I-saac-Pe-ral, trên một trong những ngã tư chính của phần đất tốt nhất thành phố, có một khoảng đất trống, nơi có một quả bom đã rơi xuống đó trong thời kỳ chiến tranh. Bên cạnh đó là toà nhà của chính phủ, trung tâm mới của Y.M.C.A. (Hiệp hội Thanh niên Cơ-đốc), toà nhà Chữ thập đỏ, và ngay sau góc phố là toà nhà của Hiệp hội Kinh thánh Mỹ. Nhờ sự giúp đỡ của ngài Paul Pipkin và sự giúp đỡ của bạn bè ở quê nhà, chúng tôi đã thu gom được hai chục ngàn đô-la để mua mảnh đất tuyệt vời đó.
Ngay trước ngày lễ Tạ ơn tôi nhận được một bức điện từ Úc, đến từ nhà truyền giảng A. Valdes con. Trong đó có nói: “Nếu anh ủng hộ các buổi nhóm của tôi, tôi sẽ đến Ma-ni-la tổ chức các buổi truyền giảng toàn thành phố và sẽ thu thập các quyên góp cần thiết.”
Tôi lập tức triệu tập tất cả các thành viên của Hội Thánh tôi (lúc đó bao gồm có tôi và vợ tôi). Chúng tôi gửi bức điện trả lời ông Vandes với nội dung như sau: “Hội Thánh 100% của ông. Hãy gửi tiền để quảng cáo truyền giảng”.
Thật tức cười nếu nói về việc truyền giảng toàn thành phố trong phòng nhóm dị dạng xấu xí của chúng tôi. Cầu nguyện xong về vấn đề đó, chúng tôi lên đường đến gặp ông điều hành quần ngựa San-Lazarno. Ông ta chưa bao giờ nghe đến những buổi hội họp tôn giáo nào có thể tổ chức tại sân quần ngựa.
-    Thế có buồn cười không khi tổ chức hội nhóm ở một nơi mà dành cho ngựa chạy? – ông ta thốt lên.
-    Không, không buồn cười đâu, - tôi trả lời, - ông có sân vận động mà chúng tôi cần.
-    Nhưng tại sao ông không tìm đến một Hội Thánh nào khác?
Với một sự lạc quan lớn của đức tin tôi tuyên bố với ông ta:
-    Người ta sẽ đến với chúng tôi đông đến nỗi không có một Hội Thánh nào đủ chỗ chứa. Sẽ có hàng nghìn người đến đây, và họ sẽ nhận được sự cứu rối và sự chữa lành.
Mắt ông ta chợt sáng lên.
-    Ông vừa nói là họ sẽ được chữa lành?
-    Vâng, Đức Chúa Trời sẽ chữa lành cho họ.
-    Nghe này, - ông ta nói, - tôi có một người em bị bại liệt. Nếu ông đảm bảo rằng anh ta sẽ được chữa lành, thì ông có thể xử dụng sân quần ngựa này miễn phí.
Không ngần ngừ một giây phút nào, tôi quyết định cho đức tin mình được thử thách:
-    Được, tôi đảm bảo với ông điều đó.
Sau đó ông ta đề nghị tôi trả tiền cho năm mươi nhân công thu dọn của sân quần ngựa. Điều này khiến tôi phải chi phí chỉ có 300 $ một ngày. Tôi trả luôn cả 2 tuần.
Tôi nhanh chóng in quảng cáo cho nhóm truyền giảng. Cùng với Floyd Hurst, một giáo sĩ khác nữa, chúng tôi ban đêm đi khắp thành phố và tất cả chỗ nào có thể đều dán thông báo về những buổi nhóm sắp đến. Chúng tôi cũng đăng thông báo trên tờ báo lớn “Thời báo Ma-ni-la”, được phát hành trên tất cả các hòn đảo Phi-lip-pin.
Ngày khai mạc hội truyền giáo có khoảng một ngàn hai trăm người đến dự. Họ ngồi chiếm một ngăn trong cả sân vận động khổng lồ. Ngày hôm sau người ta đến đông hơn, và cứ mỗi ngày số lượng họ càng tăng thêm. Từ khắp các hòn đảo của khu tập trung hàng chục người kéo đến chỗ chúng tôi. Trước khi đợt truyền giảng kết thúc, cả phần sân vận động có mái che đã chật kín người. Chúng tôi chỉ không dùng đền những chỗ ngồi không có mái che.
Sau hai tuần có khoảng 20.000 người tiến lên phía trước để ăn năn. Nhưng có nhiều người đã tiến lên nhiều lần trong thời gian đợt truyền giảng. Lượng người qua xếp hàng để được cầu nguyện là 10.000 người. Sau một buổi truyền giảng chúng tôi cầu nguyện đến khuya cho những người bệnh và đau đớn. Tôi nhận thấy là trong hàng người đợi được cầu nguyện hết ngày này sang ngày khác vẫn cứ là những người cũ.
Tôi cảm giác rằng, dù cho tầm cỡ quy mô truyền giảng như vậy, nhưng chúng tôi lại chẳng đạt được gì. Tôi không biết chắc rằng những người đó có hiểu thế nào là sựu cứu rỗi hay không nữa. Sau khi đợt nhóm kết thúc và nhà truyền giảng lên đường về nước tôi nghĩ rằng, rất có thể tôi lại còn lại với toà nhà dị dạng của mình mà không có ai cả. Nhưng Đức Chúa Trời đã ban cho tôi sự khôn ngoan để thông báo rằng những ai mong muốn làm báp-tem nước cần đến gặp nhau ngày chủ nhật ở bở biển Ma-ni-la. Hàng trăm người đã giơ tay lên, khẳng định sự đồng ý làm báp-tem cũng giống như Chúa Jê-sus đã chịu ở sông Giô-đanh.
Thật ngạc nhiên cho tôi, đến ngày chủ nhật đó trên bờ biển tôi nhìn thấy hàng ngàn người đến. Tôi nói rất thẳng với đám đông, để làm cụt hứng những ai chưa chắc chắn về sự dâng mình của mình. Tôi muốn biết chắc là chỉ chịu báp-tem nước những người đã có quyết định chắc chắn đi theo Đấng Christ. “Các bạn phải sống một cuộc sống thánh sách và phải trả giá, nếu các bạn quyết định tiếp nhận báp-tem nước. Các bạn có thể sẽ gặp khó khăn liên quan đến việc này. Các bạn phải biết chắc là mình muốn điều đó”.
Mặc dù vậy ngày hôm đó có ba trăm năm mươi chín người đã tiếp nhận báp-tem bằng sự nhúng chìm nhân danh Cha, Con, và Đức Thánh Linh. Hội Thánh của chúng tôi đã ra đời trong dòng nước ấm áp của bờ biển Ma-ni-la như vậy đấy. Những người đã chịu báp-tem nước ở lại với chúng tôi. Tôi hồi hộp theo dõi họ nên thánh trong đời sống mình và bắt đầu đem lại những bông trái của sự thánh khiết. Thánh Linh đã làm mọi công việc đó trong họ không cần đến sức ép nào từ phía tôi. Tôi cũng để ý thấy rằng trong đời sống những con người đi thao Chúa bắt đầu mức sống được cao lên, và Ngài bắt đầu ban cho họ sự thạnh vượng. Trong số họ có nhiều người mà sau này đã trở thành mục sư và nhà truyền giảng.
Trong năm đầu tiên hầu việc Chúa ở Ma-ni-la chúng tôi đã nhóm được trong trường học chủ nhật bốn trăm hai mươi ba người. Chúng tôi rất chật chội trong nhà nhóm cũ, nơi đó còn có một lớp riêng dành cho những đứa trẻ trần truồng. Có khoảng mười lăm đến hai mươi đứa trẻ hoàn toàn không có quần áo gì cả, và chúng tôi dẫn chúng vào một lớp riêng để không bị lẫn với những đứa trẻ khác.
Sau khi mua mảnh đất ở trung tâm Ma-ni-la, tôi tìm thấy một cái ga-ra cho máy bay B-52, thuộc về công ty Pepsi-Cola. Các ga-ra đó không có ai xử dụng, và giá trị của nó phải tới năm mươi ngàn đô-la, nhưng công ty Pepsi-Cola bán cho chúng tôi chỉ với giá mười ngàn đô-la. Charles Blair ở Denver đã giúp đõ chúng tôi thu thập đủ số tiền để mua ga-ra đó, nhờ đến chữ ký của một số người bạn của chúng tôi ở Mỹ. Chúng tôi mua được ga-ra đó mà không cần đến bất cứ một sự giúp đỡ tài chính của một giáo phái nào. Hết ngày này qua ngày khác chúng tôi chỉ đơn giản trông cậy vào Đức Chúa Trời trong việc chu cấp mọi điều.
Chúng tôi tìm được một nhà xây dựng nhận sẽ dựng cái ga-ra đó lên, và một kiến trúc sư nhận thiết kế mặt trước của toà nhà và nội thất bên trong với ban công. Từ cái ga-ra vòm đó đã thành hình một toàn nhà đẹp đẽ lạ thường với vòng cung phía trên như của nhà thờ, cao tới bốn mươi foots. Mỗi một bên của toà nhà đó là bốn mươi foots thép và kính. Đối với tôi toà nhà Hội Thánh này là một công trình ấn tượng nhất trong cả nước. Bên trên Hội Thánh có treo một tấm biển lớn: “Nhà thờ Vefil, Đấng Christ là câu trả lời.” Hội Thánh của chúng tôi nổi tiếng là “Hội Thánh – Đấng Christ là câu trả lời.”
Nhưng trước khi chúng tôi kết thúc việc xây dựng và chuyển đến toà nhà mới, tôi phải nếm trải một phép lạ giải cứu lạ thường của Đức Chúa Trời nữa. Phép lạ này đã thành chìa khoá cho cuộc phấn hưng tâm linh, mà đã chấn động cả dân tộc và sau đó thì cả Ma-ni-la và Phi-lip-pin sẽ không bao giờ còn như trước nữa.


© 1999-2017 Tinlanh.Ru