Làm hoà với Thượng Đế

Article Index

billy-grahamChương một: Tìm kiếm

"Các ngươi sẽ tìm ta, và gặp được, khi các ngươi tìm kiếm ta hết lòng." Giê-rê-mi 29:13

Đối với bạn, công cuộc tìm kiếm vĩ đại bắt đầu từ lúc bạn lọt lòng. Có thể phải nhiều năm qua bạn mới hiểu, mới thấy rõ là bạn vẫn tìm kiếm không ngừng : tìm kiếm một thứ bạn chưa bao giờ có, tìm kiếm một thứ quan trọng nhất đời. Đôi lúc bạn cố quên đi cái đó. Đôi khi người ta cố lãng quên, để không còn khái niệm thời gian, không còn suy nghĩ hay gì khác, chỉ còn những công việc trước mắt. Có thể đôi khi bạn cảm thấy dường như thậm chí không còn cần tìm cái thứ không tên kia nữa. Có những giây phút bạn gần như sẵn sàng bỏ việc tìm kiếm. Nhưng bao giờ cái cảm giác kia cũng lại xâm chiếm bạn, và bạn lại tìm kiếm từ đầu.

Vào những giây phút cô đơn nhất trong đời, bạn nhìn những người đàn ông và đàn bà khác và tự hỏi, họ có tìm cái thứ đó không, cái thứ mà họ không biết gọi tên là gì, cái thứ họ buồn nhớ và cái thứ họ cần. Vài người trong bọn họ có vẻ sung sướng hơn bạn nhiều, gánh nặng của họ nhẹ nhàng hơn. Họ có vẻ thỏa mãn với hôn nhân và đời sống gia đình. Số khác thì đi tìm danh vọng và giàu sang ở nước ngoài. Số khác nữa thì ngồi nhà hưởng phước, và khi trông vào họ, bạn có thể nghĩ : "Những người này chắc chẳng phải tìm kiếm gì nhiều. Họ tìm được đường đi rồi. Họ biết mình muốn gì và biết cách đạt được cái đó. Chỉ có mình là đi con đường chẳng đến đâu. Mình tự hỏi, mình tìm kiếm, mình vấp ngã trên con đường tăm tối dẫn đến nỗi tuyệt vọng này, vì nó làm gì có bảng hiệu".
Nhưng bạn không hề đơn độc. Cả nhân loại cùng đi với bạn, bởi vì cả nhân loại đều bị cuộc tìm kiếm kia xâm chiếm. Cả nhân loại tìm kiếm lời giải đáp cho sự bối rối của mình, lời giải đáp cho sự yếu đuối về đạo đức, cho sự trống rỗng về tinh thần đang làm mục ruỗng thế giới này. Cả nhân loại kêu xin được dẫn dắt, được chăm sóc, được hưởng hòa bình.
Chúng ta nghe nói mình đang sống trong một "thời đại báo động". Các nhà sử học cho thấy rằng trong cả lịch sử thế giới chỉ có vài lần loài người bị sợ hãi và mất tự tin đến mức này. Mọi nền tảng đã quen đều bị phá hủy. Chúng ta nói đến hòa bình, thì bị chiến tranh đe dọa. Chúng ta nghĩ ra những kế hoạch an ninh chi tiết, nhưng không có an ninh. Chúng ta vồ lấy bất kỳ cọng rơm nào trôi ngang, nhưng nếu có vồ được thì nó cũng tan biến.
Suốt bao thế hệ chúng ta trôi nổi như lũ trẻ hốt hoảng hết từ ngõ cụt này đến ngõ cụt khác. Và lần nào ta cũng tự nhủ : "Đây là con đường đúng đắn sẽ dẫn ta đến nơi mong muốn". Và lần nào chúng ta cũng nhầm.
Một trong những con đường đầu tiên mà chúng ta chọn gọi là "tự do chính kiến". Chúng ta kêu : "Hãy cho mọi người quyền "tự do chính kiến" thì cả thế giới sẽ sướng". Hãy để chúng tôi tự lựa chọn chính phủ thì ta sẽ được một chính phủ "đáng để sống". Và chúng ta đạt được tự do chính kiến, song thế giới cũng chẳng tốt lên. Báo chí hàng ngày đăng tin về những vụ hối lộ ở cấp cao, về nạn bao che, về nạn bóc lột, về thói đạo đức giả, là những thứ không những không bớt, mà đôi khi còn vượt quá chế độ quân chủ của các vua chúa thời cổ. Tự do chính kiến là một điều quan trọng và quí giá, nhưng một mình nó không đủ sức cho ta hòa bình mà ta đang vươn tới.
Một con đường khác cũng được đặt nhiều hy vọng gọi là "học vấn", và nhiều người đã tin con đường này. Họ nói tự do chính kiến cộng với học vấn là liều thuốc đúng đắn, và chúng ta đổ xô vào đường học vấn. Một thời gian dài con đường này có vẻ thật rực rỡ, tươi sáng và khôn ngoan, và chúng ta đi theo nó như được chắp cánh hy vọng, song nó dẫn chúng ta đến đâu ? Câu trả lời chúng ta đã quá rõ. Chúng ta hiện giờ là những người hiểu biết nhất trong suốt lịch sử văn minh nhân loại - và cũng là thảm hại nhất. Sinh viên thời nay hiểu biết các qui luật vật lý còn hơn những nhà khoa học vĩ đại nhất thời A-ri-xtôt. Nhưng dù đầu óc chúng ta kín đặc những hiểu biết, con tim chúng ta vẫn trống rỗng.
Trong số còn lại, con đường rực rỡ và quyến rũ nhất gọi là "mức sống cao". Gần như ai cũng cho rằng mình có thể tin con đường này, rằng nó sẽ tự động dẫn người đó đến một thế giới vui mừng, tốt đẹp hơn. Con đường này có vẻ đúng nhất. "Chỉ cần bấm nút - là mọi thứ sẵn sàng !" Con đường này dẫn ta qua những quảng cáo sặc sỡ, tuyệt đẹp trong các họa báo, qua những chiếc xe hơi mới bóng lộn, những tủ lạnh lấp lánh và những máy giặt tự động, qua những con gà béo căng - rán bằng những cái chảo mốt nhất bóng loáng. Chúng ta tin là lần này mình đã "đánh đúng cửa". Những đường khác có thể không dẫn đến được, nhưng đường này thì nhất định sẽ dẫn đến nơi cần !
Vậy thì bạn hãy thử nhìn ra xung quanh. Chính vào phút này đây nước Mỹ là nước mà tự do chính kiến đạt đến một mức độ mà nhiều nước văn minh khác thậm chí không giám mơ. Nước Mỹ có một hệ thống giáo dục khổng lồ và tiến xa, và cả trong nước lẫn ngoài nước người ta đều khen chúng ta là có mức sống cao. "Lối sống Mỹ" - chúng ta thích gọi nền kinh tế điện khí hóa tuyệt đối, tự động hóa tuyệt đối và mạ kền bóng loáng của ta là vậy - song nó có làm ta hạnh phúc không ? Nó có mang lại cho ta niềm vui, sự thỏa mãn và lẽ sống mà ta tìm không ?
Không. Và trong khi ta tự mãn, tự hào về thành tựu mà bao thế hệ phải mơ ước; khi chúng ta vượt đại dương chỉ trong vài tiếng đồng hồ thay vì vài tháng; khi chúng ta chế tạo được những thứ thuốc thần diệu chữa những căn bệnh khủng khiếp nhất; khi chúng ta xây nên những tòa nhà mà nếu tháp Ba-by-lon đứng cạnh cũng chỉ trông như tổ kiến thảm hại; khi chúng ta càng ngày càng biết nhiều bí mật của đại dương sâu thẳm, và càng ngày càng thâm nhập sâu hơn vào khoảng không giữa các hành tinh, - chúng ta có bớt được, dù chỉ một li cái cảm giác trống vắng bên trong ta không ? Tất cả những kỳ quan hiện đại đó có cho ta được cái cảm giác thành tựu trọn vẹn, có thể giải thích vì sao ta sống, có thể chỉ ra điều chúng ta đáng ra cần học cho được không ?
Cái cảm giác trống vắng khủng khiếp kia không phải vẫn tiếp diễn sao ? Mỗi phát hiện mới về tính đa chiều của vũ trụ có phải cho bạn được yên tâm, và bạn ít cảm thấy cô đơn và hèn yếu hơn trước không ? Thuốc ngừa sợ hãi, ngừa thù hằn và ngừa suy thoái phải chăng có thể tìm được trong một ống nghiệm, hay qua ống kính viễn vọng ?
Ta không thể phủ nhận khoa học đã cung cấp cho con người nhiều thứ mà con người cho là cần. Nhưng chính nền khoa học đó giờ đây đã thưởng cho ta món quà khủng khiếp nhất mà nhân loại từng có. Mạng sống và tương lai của mọi sinh vật trên hành tinh này là phụ thuộc vào món quà đó của khoa học. Nó như một cái bóng đe dọa trên tư duy thức tỉnh của chúng ta. Nó như một tia sáng khủng khiếp xuyên thấu giấc mơ của con cái chúng ta. Chúng ta thì giả vờ như nó không có. Chúng ta cố ra vẻ là mình chưa nhận được món quà đó, là đùa cợt, và một sáng nào đó ngủ dậy ta thấy bom khinh khí thật ra chưa chế ra, và bom nguyên tử là chưa bao giờ có - nhưng tờ báo buổi sáng thì nói ngược lại.



Tất nhiên còn có những con đường khác nữa, và lúc này đây nhiều người đang đi theo chúng. Đó là đường của danh vọng và may mắn, của hưởng thụ và quyền lực. Và chẳng có đường nào trong số đó dẫn được tới đâu, ngoài tới đầm lầy. Chúng ta sa vào cái mạng nhện của chính tư duy mình, chúng ta ngồi quá vững trong một cái bẫy tinh khôn, đến nỗi không thấy được cả nguyên nhân lẫn thứ thuốc trị căn bệnh đang hành hạ ta đến chết.
Nếu quả thật "bệnh nào cũng có thuốc chữa" thì ta phải mau mau tìm ra nó. Cát trong chiếc đồng hồ văn minh của nhân loại chảy xuống thật nhanh, và nếu còn có đường dẫn đến ánh sáng, còn có đường trở lại một tinh thần lành mạnh, - thì ta đừng để mất một giờ nào !
Nhiều người vấp ngã trong thời đại khủng hoảng này và thấy được rằng mọi nỗ lực của họ chỉ làm họ lún sâu hơn. Năm ngoái dân Mỹ đã tiêu hết một trăm hai mươi lăm triệu đô-la để xem bói ! Một trăm hai mươi lăm triệu đô-la của những con người sợ sệt bối rối trả cho những con người cũng lầm lạc như họ, để những người này cho họ những câu trả lời giả dối về những câu hỏi đang hành hạ họ !
Năm ngoái hơn mười sáu ngàn người Mỹ không kiếm nổi cả những câu trả lời giả dối kia đã tự tử, thà chết chứ không tiếp tục lầm lạc trong những rừng rậm - gọi là văn minh - do con người tạo ra.
Bạn sẽ hỏi : vậy thì bây giờ chúng ta đang ở đâu. "Hiện giờ ta ở đâu và đi về đâu ?" Cho phép tôi được nói cho bạn biết : bạn ở đâu và bạn là ai. Chúng ta là một giống dân tàn tạ. Đầu chúng ta đầy ắp kiến thức, trong khi tâm hồn chúng ta chỉ là chân không tinh thần. Chúng ta kêu ca việc thanh niên nước ta đánh mất nhiệt huyết, mất động lực, mất ham thích lao động ham thích tiến bộ. Hàng ngày tôi phải nghe các ông bố bà mẹ nói rằng họ không hiểu các con họ bị làm sao; chúng nó chẳng muốn nỗ lực với bản thân chút nào hết, chỉ đòi được mọi thứ. Các bậc cha mẹ có lẽ vẫn chưa nhận thức được rằng con cái được giáo dục cẩn thận và có văn hóa cao của họ thực chất là rỗng tuếch ở bên trong. Chúng nó không tràn đầy cái tinh THầN có thể biến lao động thành niềm vui. Chúng nó không tràn đầy lòng quyết tâm có thể biến tiến bộ thành sự thích thú. Tại sao chúng nó trống rỗng ? Bởi vì chúng nó vừa không biết chúng nó ở đâu ra, vừa không biết tại sao chúng nó đang ở đây, vừa không biết chúng nó đang đi đâu !
Chúng nó giống những đoàn xe hơi mà từng chi tiết đều hoàn thiện, nhưng bình xăng thì không được đổ đầy. Bề ngoài tuyệt diệu, nhưng bên trong lại là sự trống rỗng khiến chúng tê liệt. Vì vậy chúng cứ ở nguyên một chỗ và rỉ sét... Rỉ sét vì buồn chán.
Người ta bảo nước Mỹ đứng đầu thế giới về mức độ buồn chán tính theo đầu người ! Chúng ta biết điều này, vì chúng ta có nhiều và đa dạng các loại hình giải trí hơn hết so với bất cứ nước nào. Người ta bị hủy hoại vì thậm chí không được chính mình. Người ta phải mất tiền cho những người khác nữa để những người này giải trí cho họ, bắt họ phải cười, cố tạo cho họ một vài phút được cảm thấy ấm áp, vui vẻ, thoải mái, như cố bắt họ quên đi cái cảm giác trống rỗng khủng khiếp kia, cái cảm giác khiến họ phải kinh hoảng, thấy mình hư hỏng và cô đơn.
Có thể bạn nghĩ sự buồn chán không ghê gớm như thế. Ai cũng có lúc buồn chán, chuyện này thật tự nhiên. Nhưng cho phép tôi kể về một nỗi buồn, về tính lãnh đạm nguy hại đang xâm chiếm cả nước, xâm chiếm khối óc và trái tim con người. Con người là tạo vật duy nhất của Đức Chúa Trời có khả năng buồn. Không có sinh vật nào khác ngoài con người có khả năng làm mình buồn hay bị hoàn cảnh xung quanh làm cho buồn. Điều này rất có ý nghĩa, vì đấng Tạo Hóa của chúng ta không bao giờ làm gì vô định, và nếu Ngài đã cho con người biết buồn, nghĩa là Ngài làm như vậy nhằm một mục đích nhất định. Buồn chán là thước đo tốt nhất để đo sự trống rỗng bên trong ! Buồn chán cũng chính xác chẳng kém gì cái nhiệt kế, nó chỉ cho ta biết chính xác độ trống rỗng trong tâm hồn chúng ta. Người nào hay buồn, người đó đang sống và làm việc trong tình trạng rỗng tuếch. Bên trong người đó trống rỗng, mà thiên nhiên thì không chịu nổi sự trống rỗng. Một trong những qui luật bất biến của thế giới là ở chỗ mọi khoảng trống phải bị làm đầy, mà ngay lập tức.

Chúng ta chẳng cần phải quay lại tận thời cổ đại mới biết cái gì xảy ra với những dân tộc bị băng hoại. Chả cần nhìn đâu xa trong quá khứ, chỉ nhìn lịch sử mới đây của một số nước châu Âu cũng đủ thấy thiên nhiên lấp đầy khoảng trống trong tâm hồn con người với tốc độ kinh ngạc. Không có "chủ nghĩa" nào tìm được chỗ trong trái tim và trong tâm hồn con người, nếu người đó được đầy dẫy Thần Linh của Đức Chúa Trời, nhưng chúng lại dễ dàng xâm nhập vào khối óc và trái tim những người tự làm mình trống rỗng rồi đợi được lấp đầy. Thiên nhiên không chịu nổi sự trống rỗng, nhưng việc của chúng ta - với tư cách là những cá thể - là quyết định khoảng trống bên trong ta sẽ được lấp đầy bằng gì.
Hôm nay chúng ta - một giống dân tàn tạ - ở trong tình trạng như thế đó. Chúng ta định lấy khoa học và học vấn, lối sống tốt và giải trí, và nhiều thứ khác nữa mà chúng ta nghĩ là mình muốn để lấp đầy tâm hồn mình, - song chúng ta vẫn cứ rỗng tuếch. Vì sao chúng ta lại trống rỗng đến như vậy ? Bởi vì đấng Tạo Hóa làm ra chúng ta là để cho Ngài; và chúng ta không bao giờ đạt được sự hoàn hảo và sự trọn vẹn của mình nếu không có mối tương giao với Ngài.



Đã từ lâu Jêsus Christ nói với chúng ta rằng "loài người không chỉ sống nhờ bánh mà thôi" (Lu-ca 4:4), nhưng chúng ta không để ý đến điều này. Chúng ta nướng cho mình đủ thứ bánh mì. Chúng ta nướng cả bản thân, cho đến khi đau ốm.
Chúng ta không chịu đựng nổi khoảng trống khủng khiếp trong tâm hồn mình, chúng ta không dám nhìn con đường cô đơn đến mức tuyệt vọng trước mặt ta. Chúng ta mệt mỏi đến mức tuyệt vọng vì thù hằn, vì tham lam và dục vọng trong tâm hồn mình, nhưng bất lực khi muốn thoát khỏi những thứ đó và lấp đầy tam hồn mình bằng một thứ tốt hơn.
Thời gian có một ý nghĩa to lớn. Vũ khí tận diệt đã trao trong tay chúng ta, và ta không thể tiếp tục lang thang trên những nẻo đường sai lạc, không thể tiếp tục tìm tòi những con đường xa lạ nào nữa, không thể cho phép mình sa vào ngõ cụt nữa. Chúng ta không còn nhiều thời gian thế nữa ! Vì thế hệ chúng ta đã làm được cái điều mà các thế hệ trước chỉ mới thử làm, hoặc mới chỉ dám mơ ước vào những phút giây cuồng điên nhất say đắm trong quyền lực và tính vô nguyên tắc ! Chúng ta đã chế được vũ khí tận diệt. Chúng ta đang được chứng kiến tột đỉnh cơn điên của loài người : nguyên tử đã bị phân tách !
Lũ quỉ chắc phải cười thỏa thuê khi những bộ óc xuất chúng của trái đất lao động như điên hàng năm trời để đạt được một điều khủng khiếp như vậy ! Nguyên tử bị chia nhỏ ! Hãy chia và trị ! Hãy chia cắt và hãy phá hủy, hãy làm chấn động, hãy kéo đổ, hãy quét sạch. Cái tên "có móng" kia đã làm xong việc của mình, và người ta thì sốt sắng mà giúp nó. Bây giờ chúng ta đang thấy kiệt tác của sa-tan, thấy cái bóng trông nghiêng thông minh của nó trên nền những lưỡi lửa của Đức Chúa Trời. Bởi vì cả lửa của sa-tan, cả lửa của Đức Chúa Trời đều bốc lên trên, cả hai ngọn lửa đều tràn ra, đều soi sáng, đều biến đổi trong nháy mắt những gì chúng đụng phải, - chỉ có điều là khác biệt làm sao ! Khác biệt như giữa thiên đàng với địa ngục !
Chúng ta sống trong thế giới mà mọi thứ đều đảo lộn, mọi thứ đều hỗn loạn. Bạn có thể tin chắc rằng sự hỗn loạn đó cũng nằm trong kế hoạch của sa-tan. Kinh Thánh nói cho ta biết sa-tan là kẻ lừa dối khủng khiếp, nó hết mình khiến chúng ta tự lừa dối bản thân, đồng thời hết mình để lừa dối mọi dân tộc trên thế giới phải chia rẽ. Nó buộc chúng ta phải tin là cuộc sống sẽ tốt đẹp lên, trong khi thực ra nó chỉ xấu đi.
Nhà khoa học xuất sắc người Anh, tiến sĩ Henry Bitt, nói : "Chủ nghĩa ích kỷ tiện lợi của những năm chín mươi, khi người ta cho rằng gần như chắc chắn là thế giới tự động tiến đến chỗ hoàn thiện, bây giờ là không thể thực hiện được. Hy vọng mơ hồ rằng học vấn, chủ nghĩa nhân đạo và "tiến bộ" sẽ dần dần và nhất định dẫn đến cũng một kiểu ảo tưởng, thì giờ đây bị những sự kiện trong vòng hai mươi lăm năm nay lật đổ hoàn toàn. Mọi chuyện không đơn giản như thế. Sa-tan chưa chết. Quyền lực và sức mạnh của tối tăm vẫn còn tồn tại, và cả thế gian vẫn nằm trong tội ác."
Tất cả chúng ta đều nhận thức được là đầu thế kỷ này, thế giới đã thay đổi một cách triệt để. Chúng ta biết rõ cái nhịp độ ngày càng tăng - với tinh thần cách mạng - của nó quét sạch mọi ranh giới và truyền thống đã có với tốc độ nhanh đến nỗi ngôn ngữ, thời trang, tập quán, nhà ở, lối sống và lối tư duy của ta thay đổi và trở thành đồi bại. Chỉ cách đây vài năm, bọn trẻ con khoái trá về ý nghĩ ra bến tàu ngắm các tàu thủy to chạy qua. Hôm nay chúng nhìn những máy bay trực thăng với máy bay phản lực một cách thờ ơ. Chúng ta, vốn trước đây cho điện tín là phép lạ, giờ đây hoàn toàn dửng dưng trước một phép lạ như truyền hình. Chỉ mới đây thôi nhiều bệnh tật bị coi là vô vọng và nan y. Bây giờ chúng ta có những thuốc công hiệu đến nỗi nhiều thứ bệnh ngày xưa đã trở thành hiếm thấy. Chúng ta đã đạt được nhiều thứ, không còn nghi ngờ gì nữa về chuyện này. Nhưng dù tiến bộ như vậy, con người vẫn không giải quyết được vấn đề căn bản của nhân loại. Chúng ta có thể xây những tòa nhà cao nhất, đóng những tàu thủy chạy nhanh nhất, bắc những chiếc cầu dài nhất - nhưng chúng ta vẫn chưa điều khiển được bản thân và sống trong bình đẳng và hòa bình !
Chúng ta có thể lập nên những trường phái nghệ thuật và âm nhạc mới to lớn, càng ngày càng phát hiện các vi-ta-min mới và tốt, nhưng những mối lo của ta vẫn như cũ. Vẫn là những mối lo mà con người luôn có, chỉ có điều chúng đã tăng lên và nhiều lên gấp bội. Chúng có thể hiện ra trước mắt ta trong bộ mặt mới; chúng có thể khiến ta đau khổ hơn và lo lắng hơn; nhưng nói chung ta vẫn bị những cám dỗ như cũ, bị xét đoán như cũ, bị thử thách như cũ, như nhân loại vẫn luôn từng bị.
Bởi vì, kể từ khoảnh khắc con người chọn ý mình thay vì ý Đức Chúa Trời trong vườn Ê-đen, con người vẫn luôn bị những nan đề cũ hành hạ. Lý do đã được trình bày trong sách đầu tiên của Kinh Thánh. Những hậu quả kinh khủng do chúng gây ra được trình bày trong chương một của Thư gửi cho người Rô-ma. Còn tin lành của Jêsus Christ thì cho ta thuốc chữa khỏi mọi nan đề đó.
Bản chất tội lỗi và hư hỏng khiến tâm hồn con người đầy những hận thù, tị nạnh, tham lam và ghen tuông. Sự rủa sả của tội lỗi đè nặng trên xác thịt con người, và từ ngàn đời đến nay con người vẫn sợ chết. Bộ óc sáng tạo cho phép con người thay đổi mọi thứ, ngoại trừ bản thân. Vì dù "tiến bộ" của thời đại chúng ta có được lớn tiếng ca ngợi đến mấy, con người vẫn y nguyên như lúc ban đầu.
Tội lỗi cũng không thay đổi chút nào, dù con người làm đủ mọi cách để thay đổi nó. Chúng ta định đội cho nó cái tên khác. Chúng ta dán những cái nhãn mới lên cùng một chai thuốc độc cũ. Chúng ta cố cọ rửa cái nhà kho cũ và cho nó là ngôi nhà mới. Chúng ta định gọi tội lỗi là "sai sót" hay "lầm lạc", hay là "thiếu ý thức", nhưng tội lỗi vẫn như cũ. Dù chúng ta định cứu nguy cho lương tâm mình thế nào đi nữa cũng vô ích, chúng ta bao giờ cũng biết mọi người đều tội lỗi; và hậu quả của tội lỗi cũng vẫn là bệnh tật, nỗi chán chường, là đánh mất ảo vọng, là tuyệt vọng và cái chết.
Đau khổ cũng không thay đổi. Đau khổ bắt đầu từ khi A-đam và Ê-va tan nát cõi lòng mà nhìn thi thể bất động của đứa con bị giết là A-bên, và lần đầu tiên cảm nhận được sức nặng khủng khiếp của tai họa. Và tai họa tiếp diễn đến tận ngày nay, khi đau khổ là tiếng nói chung của cả nhân loại. Không ai tránh khỏi đau khổ, mọi người đều phải nếm nó. Một trong số những người đến an ủi Gióp thậm chí còn tưởng đau khổ mới là mục đích sống, vì người đó nói :
- "Nhưng loài người sinh ra để bị khốn khó, như lằn lửa bay chớp lên không" (Gióp 5:7).
Cái chết cũng vẫn như cũ. Con người cố thay đổi bề ngoài của nó. "Phu đào huyệt" trở thành "dịch vụ mai táng". Chúng ta định giảm bớt độ khắc nghiệt của tang lễ; nhưng dù ta có gọi việc này là gì đi nữa, dù ta có tô son trát phấn bao nhiêu đi nữa, hiện thực lạnh lẽo và khắc nghiệt của cái chết không hề thay đổi trong suốt lịch sử nhân loại.
Lịch sử thật của loài người gồm ba bối cảnh thực tế là : quá khứ đầy tội lỗi, hiện tại đầy đau khổ và trong tương lai thì cầm chắc cái chết.
Kinh Thánh nói :
- "Theo như đã định cho loài người phải chết một lần, rồi chịu phán xét" (Hê-bơ-rơ 9:27).
Đối với người bình thường, điều này có vẻ cay nghiệt và tuyệt vọng. Hàng trăm thuyết triết học và rất nhiều tôn giáo do con người nghĩ ra để cố bỏ qua Lời Đức Chúa Trời. Các nhà triết học hiện đại và các nhà tâm lý học cố làm ra vẻ còn có đường khác ngoài Đấng Christ. Song con người đã thử hết các đường ấy mà chẳng đường nào dẫn đến đâu.
Đấng Christ đến là để giải đáp cho ta ba câu hỏi muôn thuở về tội lỗi, về đau khổ và về cái chết. Và chỉ có Jêsus Christ, chỉ một mình Ngài là Đấng vĩnh cửu và bất biến, "Đức Chúa Jêsus Christ hôm qua, ngày nay, và cho đến đời đời không hề thay đổi" (Hê-bơ-rơ 13:8).
Mọi thứ có thể thay đổi, nhưng Đấng Christ vẫn y nguyên. Trong cái đại dương không đáy của dục vọng con người, đấng Christ vẫn đứng vững và bình thản, sẵng sàng chào đón mọi ai đến với Ngài, ai tiếp nhận phước lành của hòa bình và yên ổn. Vì chúng ta đang sống trong thời kỳ ân điển, thời kỳ mà Đức Chúa Trời hứa hễ ai muốn cũng có thể đến và tiếp nhận con của Ngài (Giăng 1:12). Nhưng thời kỳ ân điển không phải là kéo dài vô tận. Chúng ta đang sống đây chỉ là nhờ sự chịu đựng nhẫn nại của Đức Chúa Trời (II Phi-e-rơ 3:9).


Chương hai: Kinh Thánh

"Trời đất sẽ qua đi, nhưng lời ta nói chẳng bao giờ qua đi".
Ma-thi-ơ 24:35

Thời gian thấm thoắt. Chiếc kim giây đếm từng giây, nhích dần tới nửa đêm. Nhân loại đã sa vào ngõ cụt. Phải chọn đường nào đây ? Chúng ta có còn nào không ? Có đường nào cho ta đi không ? Có ánh sáng nào rọi vào đến cái bóng tối này không ? Chúng ta có tìm được chiếc chìa khóa giải đáp những thắc mắc của mình không ? Liệu có quyền lực tối cao nào mà ta có thể kêu cầu được chăng ? Hay chúng ta bị một đấng tạo hóa bí ẩn nào hay một thế lực nào quẳng vào thế giới này mà không hề chỉ dẫn cho biết chúng ta từ đâu đến, ở đây làm gì và sẽ đi đâu ?

Tất cả các câu hỏi trên đều có cùng một câu trả lời : chúng ta có chìa khóa để giải câu đố. Chúng ta có một nguồn tin rất có uy tín. Nguồn tin đó nằm trong một quyển sách lịch sử và lâu đời mà ta gọi là Kinh Thánh. Quyển sách ấy đến được với ta qua suốt bề dày của lịch sử. Nó đã chuyền tay vô số người, đã xuất hiện dưới nhiều dạng và đứng vững trước mọi loại áp lực. Cả dã man lẫn trình độ khoa học văn minh đều không đụng nổi đến Kinh Thánh. Cả lửa lẫn tiếng cười mỉa mai đều không hủy diệt nổi nó. Chói lọi của những lời hứa Kinh Thánh vẫn không thay đổi trong suốt nhiều thời kỳ đen tối trong lịch sử nhân loại.

Giờ đây, khi chúng ta đã tiến gần đến giờ phút quyết định mới trong lịch sử toàn thế giới, ta lại quay về với quyển sách khôn ngoan và tiên tri bất biến ấy; ta cố tìm lý do tại sao chính quyển sách này lại chịu nổi mọi thử thách và luôn làm một nguồn đức tin và sức mạnh tinh thần cho con người.

Có người xem Kinh Thánh chủ yếu là lịch sử dân tộc Do Thái. Số khác thì công nhận là Kinh Thánh rao giảng một đạo đức đúng đắn nhất từ trước tới giờ. Nhưng dù những điều trên có quan trọng đến đâu chăng nữa cũng chỉ là những bổ sung thứ yếu cho đề tài chính của Kinh Thánh là câu chuyện cứu rỗi của Đức Chúa Trời qua nhân cách Jêsus Christ. Những người đọc Cựu Ước như đọc một mẫu mực văn học tuyệt vời, là một trường ca hay một câu chuyện ây cấn, trong khi không nhận thấy đó là lịch sử cứu rỗi nhân loại, - đã để tuột mất ý nghĩa đích thực và tin lành chứa đựng trong Kinh Thánh.

Kinh Thánh được Đức Chúa Trời cho phép chép lại để bày tỏ cho con người chương trình cứu chuộc của Ngài. Kinh Thánh được chép lại là để con cái của Ngài được rõ những luật pháp không thể quên, để chúng được sự khôn ngoan lớn dẫn dắt, còn tình yêu vĩ đại của Ngài thì có dịp an ủi chúng trên đường đời. Vì nếu không có Kinh Thánh, thế gian thực sự đã trở thành bóng tối đầy khủng khiếp, không một ngọn hải đăng cấp cứu.

Kinh Thánh dễ được coi là quyển sách duy nhất có chứa sự tỏ ra của Đức Chúa Trời. Có rất nhiều kinh của các tôn giáo khác nhau : có Cô-ran của Mô-ha-mét, có kinh Phật, có Zen-đa-ve-xta của Za-ra-tu-xt’ra và Vê-đa của . Tất cả các kinh đó đều có các bản dịch chính xác, và ta có thể xem xét giá trị của chúng. Nhưng sẽ rõ ngay là mọi cuốn kinh phi Cơ Đốc đó đều phát triển theo hướng sai lầm. Tất cả các kinh đó, dù bắt đầu bằng những tia sáng lờ mờ của một ánh sáng thật, vẫn đều kết thúc ở bóng tối dày đặc. Người quan sát hời hợt nhất cũng sớm nhận ra rằng Kinh Thánh về cơ bản là khác các sách kia, rằng Kinh Thánh là quyển sách duy nhất mang lại cho con người sự cứu rỗi và chỉ ra được giải pháp cho các nan đề của loài người.

Phải mất mười sáu thế kỷ Kinh Thánh mới được tập hợp trọn vẹn. Tham gia việc này có hơn ba mươi tác giả, mỗi người trong số họ đều là sử quan của Đức Chúa Trời. Những người này (thường là sống cách nhau nhiều thế hệ) không phải chỉ ghi lại suy nghĩ hay ước vọng của họ. Họ là những công cụ để ghi lại trên sách những điều Đức Chúa Trời gợi ý cho họ; họ viết, còn Đức Chúa Trời lãnh đạo họ. Nhờ sự hà hơi của Chúa họ đủ khả năng để thấy được những chân lý vĩ đại và bất biến và rồi ghi lại để những thế hệ sau cũng được thấy và hiểu biết.

Trong vòng mười sáu thế kỷ các sách của Kinh Thánh đã được được viết bằng các thứ tiếng khác nhau, do những con người khác nhau, sống vào những thời đại khác nhau và ở những đất nước khác nhau; nhưng tất cả bọn họ đều cùng kể một câu chuyện. Đức Chúa Trời phán với mỗi người trong số đó bằng tiếng mẹ đẻ, vào thời người đó sống, song cốt lõi của thông điệp thì bao giờ cũng là một. Khi các nhà khoa học vĩ đại tập hợp rất nhiều những bản chép tay cổ đại bằng tiếng Hê-bơ-rơ (Do Thái), tiếng A-ram và tiếng Hy Lạp lại làm một rồi dịch ra ngôn ngữ hiện đại, họ phát hiện được rằng các lời hứa của Đức Chúa Trời vẫn y nguyên và tin lành của Ngài cho loài người cũng không thay đổi. Ngày hôm nay khi ta đọc những lời vĩnh cửu này, ta thấy những qui tắc sống do các nhà chép sử cổ đại đề ra vẫn sống động và đầy ý nghĩa cho thế hệ chúng ta như đã từng sống động và có ý nghĩa đối với người ta ngay khi Đấng Christ còn sống.

Chẳng có gì lạ là tại sao Kinh Thánh lại luôn là cuốn sách phổ biến nhất thế giới ! Không có quyển sách nào khác có thể sánh với Kinh Thánh về độ khôn ngoan sâu sắc, về vẻ đẹp của thi ca, về tính chính xác của lịch sử và của các lời tiên tri. Nhà phê bình nào tuyên bố Kinh Thánh có người chỗ giả mạo, có những lời lẽ hoang tưởng và những lời tiên tri không ứng nghiệm chỉ chứng tỏ là chính họ mới có lỗi, chứ không phải Kinh Thánh. Nghiên cứu kỹ lưỡng cho thấy, những điều tưởng chừng mâu thuẫn chỉ là do dịch sai, chứ không phải do lời tiên đoán là thiếu căn cứ. Không phải Kinh Thánh, mà là con người mới phải điều chỉnh.

Và dù là thế, trong nhiều gia đình và trong giới gọi là có văn hóa, người ta vẫn thích sờ nắn và nhìn Kinh Thánh như thể nó là quyển sách sinh ra chỉ để bám bụi trên giá sách, chứ không phải lời sống của Đức Chúa Trời. Khi vị linh mục hỏi một bé gái nhỏ xem nó có biết Kinh Thánh để ở đâu không, nó đáp ngay không cần suy nghĩ là có biết, rồi liệt kê ra một loạt : "ảnh bạn trai của chị, công thức kem bôi tay mẹ thích, mớ tóc giả của em trai và biên lai đồng hồ của bố !" Đó là toàn bộ nội dung quyển Kinh Thánh của gia đình mà nó biết. Quá nhiều người quen coi Kinh Thánh là chỗ lý tưởng để cất thư cũ hay để ép hoa khô và tuyệt nhiên không chú ý đến sự giúp đỡ và sự tin tưởng mà Kinh Thánh vốn dĩ muốn cung cấp cho họ, theo như chủ định của Đức Chúa Trời.


Vào thời chúng ta, thái độ đối với Kinh Thánh cũng thay đổi, và thay đổi thật nhanh ! Cuộc sống đào thải mọi thứ giả tạo, mọi thứ đã mất ý nghĩa. Những lời giả dối của người hứa với người bây giời mới lộ rõ là những lầm lẫn. Khi ta hốt hoảng nhìn quanh để tìm lại những chân lý không gì lay chuyển, thì ta lại trở về với cuốn sách cổ xưa này, là cuốn sách đã an ủi và đã hứa hẹn sự cứu rỗi cho hàng triệu người suốt hàng thế kỷ trước.

Đúng vậy, con người lại "phát hiện" ra Kinh Thánh ! Người ta phủi bụi Kinh Thánh cũ và mua Kinh Thánh mới. Họ tìm lại được trong đó những lời lẽ rất quen thuộc đã gần như bị lãng quên, những lời vang vọng ý nghĩa, tưởng chừng như mới viết hôm qua, bởi vì Kinh Thánh chứa đựng toàn bộ tri thức mà con người cần đến để lấp đầy tâm hồn cũng như giải quyết các nan đề của mình. Vì Kinh Thánh là kể hoạch của người thợ xây thiên thượng, và chỉ có theo sự lãnh đạo của Kinh Thánh chúng ta mới xây dựng được cuộc sống mà ta đang tìm kiếm.

ở Mỹ còn có một văn kiện nữa mà ta quí trọng. Văn kiện được thảo cách đây gần một trăm năm mươi năm, một nhóm người soạn thảo nó lâu, và tranh cãi còn lâu hơn về các điều khoản của nó, và rốt cục đưa nó ra trước mười ba tiểu bang để thông qua. Những con người đã soạn thảo ra hiến pháp nước ta này biết họ đang thiết lập một văn kiện cơ sở cho một nền chính trị của những người tự do; họ nhận thức được rằng con người chỉ có thể sống tự do và độc lập khi mỗi người đều biết và hiểu luật pháp, đều biết quyền và quyền lợi của bản thân cũng như giới hạn của chúng. Họ phải bình đẳng trước tòa, vì chính quan tòa cũng bị ràng buộc bởi cùng một luật pháp như vậy và phải xét xử từng trường hợp một theo đúng qui định.

Trong khi cả thế giới còn lại theo dõi thực nghiệm vĩ đại này của nhân loại, người ta phát hiện ra rằng nếu biết và tuân thủ luật pháp, con người sẽ được tự do thật sự ! Rốt cục con người đã tìm được chỗ đứng của mình. Con người có các quyền theo hiến pháp, và đồng thời có các nghĩa vụ theo hiến pháp. Nếu con người coi thường một thứ thì cả thứ kia cũng phải chịu thiệt hại, và trong các cuộc bầu cử có biết bao cử tri không làm tròn nghĩa vụ công dân của mình, để rồi hậu quả là họ buộc phải thừa nhận chính phủ đã chất lên họ những gánh nặng họ chẳng khoái chút nào !

Nước Mỹ phát triển và phồn thịnh trong khuôn khổ hiến pháp của nó thế nào thì Cơ Đốc giáo cũng phát triển và phổ biến theo luật pháp đã định trong Kinh Thánh như thế. Hiến pháp có mục đích và áp dụng như nhau đối với mọi người sống trong vòng ảnh hưởng của nó, không ai có lợi thế hay được phép giải thích hiến pháp theo kiểu riêng, thế nào thì Kinh Thánh là hiến pháp tối cao cho toàn thể nhân loại, và các luật của Kinh Thánh áp dụng cho mọi người không hề có ngoại lệ hay giải thích riêng cũng y như vậy.

Hiến pháp là luật pháp tối cao của một nước thế nào thì Kinh Thánh là luật pháp tối cao của Đức Chúa Trời như thế, vì Đức Chúa Trời có thiết lập luật pháp của Ngài trong Kinh Thánh. Đức Chúa Trời đã ban các lời hứa đời đời của Ngài trong Kinh Thánh. Đức Chúa Trời bộc lộ chương trình của Ngài để cứu cả nhân loại trong Kinh Thánh.

Trong các kỳ quan thiên nhiên ta thấy được hiệu lực các luật lệ của Đức Chúa Trời. Có ai chưa từng ngắm các vì sao trong một đêm trời quang với lòng đầy kính sợ trước tạo vật của tay Chúa ? Ai mà không thấy lòng mình phơi phới lúc xuân sang, khi thấy mọi sinh vật uống no sức sống mới ? Trong vẻ đẹp và sự phong phú quanh ta, ta thấy tính đa dạng của quyền phép Đức Chúa Trời và sự cân nhắc vô biên trong kế hoạch của đấng Tạo Hóa; nhưng thiên nhiên không nói cho chúng ta biết gì về tình yêu và sự thương xót của Đức Chúa Trời. Trong thiên nhiên ta không tìm được lời hứa cứu rỗi cho các nhân ta.

Trong đáy sâu của tâm hồn, lương tâm ta cho ta biết sự tồn tại của Đức Chúa Trời và khác biệt giữa thiện và ác; nhưng đó chỉ là những tiếng vang của tin lành, không rõ ràng và dễ hiểu như Kinh Thánh dạy. Chỉ trong các trang Kinh Thánh ta mới tìm được nền tảng rõ ràng và chính xác của Cơ Đốc giáo chân chính.

Mọi giáo lý Cơ Đốc đều được qui định trong Kinh Thánh, và một Cơ Đốc nhân thực sự không phủ nhận bất cứ điều gì trong đó, cũng như không bao giờ định thêm gì vào lời Đức Chúa Trời. Trong khi hiến pháp Hoa Kỳ có lúc bị thay đổi và bổ sung, Kinh Thánh không cần bổ sung gì hết. Chúng ta thực sự tin rằng Thánh Linh đã hướng dẫn bàn tay của những người soạn Kinh Thánh và họ thể hiện ý nghĩ cũng như lựa chọn từ ngữ là theo của Chúa. Như sứ đồ Phi-e-rơ đã nói : "Vì chẳng có lời tiên tri nào là bởi ý một người nào mà ra, nhưng ấy là bởi Đức Thánh Linh cảm động mà người ta đã nói bởi Đức Chúa Trời" (I Phi-e-rơ 1:21). Sứ đồ Phao-lô nói với chúng ta : "Cả Kinh Thánh đều là bởi Đức Chúa Trời soi dẫn, có ích cho sự dạy dỗ, bẻ trách, sửa trị, dạy người trong sự công bình, hầu cho người thuộc về Đức Chúa Trời được trọn vẹn và sắm sẵn để làm mọi việc lành" (I Ti-mô-thê 3:16,17).

Trong khi truyền đạt những thông điệp xác thực, các tác giả Kinh Thánh không bao giờ cố tô hồng cuộc sống thực. Họ công khai thừa nhận các tội lỗi lớn cũng như nhỏ, thừa nhận bản chất yếu đuối của con người, và họ kể lại cuộc sống mà người ta đã sống thời Kinh Thánh. Điều kinh ngạc nhất là đời sống và những động cơ thúc đẩy con người những thời xa xưa đó đối với chúng ta thật là tân thời ! Khi đọc Kinh Thánh, các trang Kinh Thánh phản ánh chính khối óc và con tim chúng ta, kiêu ngạo và thành kiến của ta, thất bại và nhục nhã của ta, tội lỗi và lo lắng của ta.

Chân lý ngoại thời gian. Chân lý của thế kỷ này không khác chân lý của thế kỷ kia, chân lý không phụ thuộc vào cả dân tộc lẫn vị trí địa lý. Chỉ tư tưởng con người mới khác nhau, chỉ tập quán, chỉ qui tắc đạo đức của con người mới thay đổi, còn những chân lý vĩ đại, vượt trội mọi sự thời nào cũng là vĩnh cửu.

Việc Jêsus Christ, cứu tinh của chúng ta, xuất hiện là chuyện kể của cả Kinh Thánh, là tin cứu rỗi. Những người nghiên cứu sâu về Kinh Thánh phát hiện được các lời tiên tri về Jêsus Christ ngay từ đầu Cựu Ước, vì câu chuyện về Ngài là chủ đề thực sự của cả Cựu lẫn Tân Ước.

Ngài là dòng dõi người nữ trong sách Sáng thế ký.

Trong sách Xuất Ê-díp-tô ký Ngài là Chiên Con của lễ Vượt qua.

Trong sách Lê-vi ký - Ngài là của lễ chuộc tội.

Trong sách Dân số ký - Ngài là vầng đá ban nước uống.

Trong Phục truyền luật lệ ký - Ngài là tiên tri.

Trong sách Giô-suê - Ngài là tư lệnh đoàn quân của Chúa.

Trong sách Các quan xét - Ngài là đấng giải thoát.

Trong sách Ru-tơ - Ngài là đấng che chở từ trời.

Trong hai sách Sa-mu-ên, hai sách Các vua và hai sách Sử ký - Ngài là vị vua được hứa cho.

Trong sách Nê-hê-mi - Ngài là đấng khôi phục dân tộc I-sơ-ra-ên.

Trong sách Ê-xơ-tê - Ngài là người bảo vệ.

Trong sách Gióp - Ngài là đấng cứu chuộc tôi.

Trong thi thiên - Ngài là mọi sự đối với tôi.

Trong sách châm ngôn của Sa-lô-môn - Ngài là tấm gương cho tôi.

Trong sách Truyền đạo - Ngài là mục đích của tôi.

Trong sách Nhã ca - Ngài là niềm vui của tôi.

Trong các sách tiên tri - Ngài là vị vua bình an sắp đến.

Trong các Tin Lành - Ngài là Đấng Christ đến để tìm và cứu những gì hư mất.

Trong Công vụ các sứ đồ - Ngài là Đấng Christ đã sống lại.

Trong các thư tín - Ngài là Đấng Christ ngồi bên phải Đức Chúa Trời Cha.

Trong Khải huyền - Ngài là Đấng Christ đến và trị vì.

Đó là thông điệp vĩnh cửu của Kinh Thánh. Đó là chuyện kể về sự sống, về hòa bình, sự vĩnh cửu và về trời. Trong Kinh Thánh không có mưu mô bí mật nào. Kinh Thánh không cần phải được giải nghĩa theo kiểu đặc biệt. Kinh Thánh chứa đựng một sứ điệp mạnh dạn và rõ ràng cho mọi sinh vật - đó là tin lành về Đấng Christ và về lời Ngài kêu gọi làm hòa với Đức Chúa Trời.

Có lần Jêsus ngồi trên một ngọn núi gần Ca-bê-na-um cùng với các môn đồ. Họ tập trung quanh Ngài. Có lẽ Phi-e-rơ ngồi một bên, còn Giăng ngồi bên kia Jêsus. Jêsus bình thản và dịu dàng nhìn các môn đồ trung thành của mình, như người cha yêu thương nhìn đàn con, yêu từng đứa một, yêu mỗi đứa vì một lý do riêng, yêu sao cho đứa nào cũng cảm thấy mình nổi bật và được ôm ấp riêng. Jêsus phải yêu các môn đồ như vậy.

Cái nhóm nhỏ đó phải đăm chiêu dưới ánh mắt đường bệ và yêu thương của Ngài. Họ phải yên lặng vì cảm thấy giờ phút này có gì đó rất lớn lao sẽ được tuyên bố, gì đó mà họ phải ghi nhớ, gì đó mà họ phải truyền đạt lại cho người khác, cho mọi người trên thế gian, là những người không được may mắn nghe những lời này từ chính miệng của Thầy như họ.

Bởi vì trên núi đó, có lẽ đứng dưới tán lá ô-liu bàng bạc, xam xám xanh, Jêsus đã giảng một bài giảng vĩ đại nhất mà loài người từng nghe, Ngài cắt nghĩa bản chất của đời sống Cơ Đốc. Khi Ngài dạy xong, một sự run rẩy thánh sạch xâm chiếm đoàn dân, "đoàn dân lấy lời dạy của Ngài làm lạ, vì Ngài dạy như là có quyền, chớ không giống các thầy thông giáo" (Ma-thi-ơ 7:29).

Quả thực Ngài dạy như người có quyền, có quyền do chính Đức Chúa Trời trao; và luật pháp mà Jêsus lập là luật pháp của chính Đức Chúa Trời mà mỗi Cơ Đốc nhân có lòng trông đợi được cứu rỗi phải tuân thủ.

Nếu trong nhà bạn không có Kinh Thánh, hãy đi kiếm bằng được nó ngay bây giờ, hãy kiếm cuốn sách mà bạn thích nhất, kích thước hợp với bạn nhất, chữ dễ đọc nhất, rồi thì bạn hãy ngồi xuống và thử tự tìm hiểu xem tại sao quyển sách này lại trải qua hàng thế kỷ. Bạn hãy tự phát hiện xem tại sao Kinh Thánh lại đáp ứng được mọi nhu cầu con người, tại sao Kinh Thánh nâng đỡ cái đức tin và sức mạnh thúc đẩy nhân loại tiến bộ.

Nếu đã lâu bạn không đụng đến Kinh Thánh, đọc Tin Lành theo Giăng sẽ rất có ích cho bạn để làm quen lại với Kinh Thánh. Vừa được coi là một trong các sách sâu sắc nhất của Kinh Thánh, Tin Lành theo Giăng vừa là một sách rõ ràng nhất và dễ hiểu nhất. Tin Lành này được chép lại chính là để chỉ ra việc cứu rỗi loài người phải diễn ra như thế nào và vì nguyên nhân gì, và vì thế mà sách này thỏa mãn được mọi đòi hỏi của lý trí cũng như mong mỏi của con tim.

Đọc xong Tin Lành theo Giăng, bạn có thể làm quen với các Tin Lành theo Mác, Lu-ca và Ma-thi-ơ, trong đó bạn nhận thấy được cách các tác giả sử dụng các cá tính cũng như văn phong hoàn toàn khác biệt vào việc kể tiếp câu chuyện cứu rỗi qua Đấng Christ. Bạn sẽ thấy được cái chân lý mạnh mẽ có tính toàn cầu làm cơ sở của toàn bộ giáo lý Tin Lành và hiểu rõ ý nghĩa câu nói của sứ đồ Phao-lô : "Đức Chúa Jêsus Christ hôm qua, ngày nay và cho đến đời đời không hề thay đổi" (Hê-bơ-rơ 13:8).

Khi bạn đã đọc hết từng Tin Lành một, hãy đọc Tân Ước từ đầu và lần lượt hết tất cả các sách. Khi làm như vậy, bạn sẽ phát hiện ra rằng bạn đã thích đọc Kinh Thánh và tìm được ở Kinh Thánh một nguồn hưng phấn, một người cố vấn và lãnh đạo thực tế, một kho tàng những lời khuyên khôn ngoan, đến nỗi việc đọc Kinh Thánh trở thành một tập quán trong đời sống hàng ngày của bạn.

Kiến thức Kinh Thánh cần cho một đời sống phong phú và tràn đầy ý nghĩa. Vì những lời trong quyển sách đó có đặc điểm là lấp đầy khoảng trống, bắc cầu qua vực sâu, biến những màu sắc phôi pha trong cuộc sống ta thành những viên ngọc quí lóng lánh. Hãy tập hỏi Kinh Thánh mọi thứ bạn thắc mắc. Trong các trang Kinh Thánh, bạn sẽ tìm được câu trả lời đúng cho mọi vấn đề.

Nhưng trên hết Kinh Thánh mở ra cho bạn bản chất của Đức Chúa Trời. Suốt hàng thế kỷ các nhà triết học đánh vật với vấn đề một Đấng tối cao. Đấng đó là ai ? Là cái gì ? ở đâu ? Nếu có đấng ấy thật, ngài có quan tâm gì đến tôi không ? Nếu có, tôi làm sao để biết được ngài ? Câu trả lời cho những câu hỏi tương tự và hàng ngàn câu hỏi khác nữa nằm trong quyển sách đặc biệt mà ta gọi là Kinh Thánh.

Chương ba: Đức Chúa Trời

"Nếu ông dò xét, há có thể hiểu biết được sự sâu nhiệm của Đức Chúa Trời..."
Gióp 11:7

Đức Chúa Trời là ai ? Ngài trông ra sao ? Làm sao ta biết chắc là Ngài có thật ? Ngài có từ bao giờ ? Chúng ta có biết Ngài được không ?

Người nào cũng tự hỏi những câu tương tự, dù là hỏi thầm hay thành tiếng, vì khi xem xét thế giới chung quanh, chúng ta không thể nào không kinh ngạc về công cuộc tạo dựng nên nó. Chúng ta đụng độ hàng ngày với phép lạ sự sống và cái chết bí ẩn, với bài ca khen ngợi của những cây cối trổ bông, với bầu trời đầy sao tráng lệ, với những núi và biển hùng vĩ. Ai tạo ra tất cả những thứ đó ? Ai đặt nền móng cho định luật vạn vật hấp dẫn, mà nhờ đó mọi thứ được giữ nguyên ở vị trí của mình ? Ai ra lệnh cho có ngày, đêm và các mùa luân chuyển quanh năm ?

Câu trả lời có thể được duy nhất cho những câu hỏi trên cũng như vô số các câu hỏi khác là : đây là công cuộc sáng tạo của Đấng tạo hóa tối cao. Mọi chiếc đồng hồ đều được chế tạo theo thiết kế của nhà sáng chế ra sao thì mọi cơ thể sống chuẩn xác trong thế giới chúng ta cũng đều được tạo ra theo thiết kế của một nhà sáng chế vĩ đại là Đấng tạo hóa như vậy. Chúng ta gọi Ngài là Ông Trời (Đức Chúa Trời). Cái tên này cả nhân loại đều thuộc. Ngay từ thuở ấu thơ, cái tên đó đã lọt vào trong ta cùng với hơi thở. Kinh Thánh dạy rằng, Đức Chúa Trời mà ta đang nói đến, Đức Chúa Trời mà ta tôn vinh, Đức Chúa Trời mà "mọi ân điển tốt lành cùng sự ban cho trọn vẹn" đều từ Ngài mà ra (Gia-cơ 1:17) chính là Ông Trời đã tạo nên thế giới này và đặt chúng ta vào sống trong đó.

Nhưng mà "Ngài là ai ?" - bạn sẽ hỏi thế. "Ngài ở đâu ?" Chúng ta ai cũng biết tên Ngài. Chúng ta gọi Ngài trong những phút khó khăn và thử thách. Nhiều người trong chúng ta cố gắng sao cho mỗi một tiếng đồng hồ thức giấc trong ngày đều tràn đầy suy nghĩ về Ngài. Số khác thì nói họ không tin vào Ngài, rằng Ngài không có thật. Và còn một số khác nữa nói : "Phải giải thích cho tôi nghe về Ông Trời đi thì có khi tôi sẽ công nhận Ông ấy".

Nếu bạn cũng ở trong số đó, nếu cả đời bạn đã nghe nói và cũng nói về Ông Trời, nhưng vẫn mong có ai giải thích được cho bạn về Ngài, để bạn có thể tin vào Ngài, và chỉ vào một mình Ngài mà thôi, thì chúng ta hãy cùng xem Kinh Thánh có thể mô tả cho ta chính xác đến mức nào.

Trong giai đoạn nguy ngập hiện nay trong lịch sử thế giới, mỗi người đều cần tìm câu trả lời cho câu hỏi "Ông Trời như thế nào ?" Mỗi người đều cần đặt câu hỏi đó, và mỗi người đều cần nắm chắc câu trả lời. Mỗi người đều cần biết không chút nghi ngờ về việc Đức Chúa Trời là ai và Ngài có thể làm được gì.

Sự thiếu hiểu biết về Đức Chúa Trời và việc con người từ chối tuân lệnh Ngài là gốc rễ của mọi vấn đề và nhu cầu đang đè nặng lên ta. Việc con người không biết và bối rối trước chương trình của Đức Chúa Trời đã khiến thế giới hỗn loạn. Việc con người không muốn nhận biết Đức Chúa Trời cũng như vâng phục Ngài và các luật lệ của Ngài là thủ phạm gây ra cái ách đè nặng trong tâm hồn ta. Vì vậy ta sẽ học cho hết những gì có thể biết được về Ngài !

Ta đi đâu mới tìm được hiểu biết ấy ? Ai trong chúng ta có thể cung cấp chân lý ? Chẳng lẽ chúng ta không phải là những kẻ chết rồi tầm thường sao ? Chẳng lẽ Đức Chúa Trời lại chọn một người nào ở thế gian này để nói về Ngài được trao uy quyền tối thượng của Ngài ? Không. Người duy nhất có thể làm việc đó sống cách đây những hai nghìn năm, và chúng ta đã đóng đinh Ngài mất rồi ! Làm sao mà biết được nữa ?

Chúng ta có thể hỏi các nhà khoa học, và họ sẽ trả lời rằng Đức Chúa Trời chính là hiện thân của tất cả những gì đang tồn tại trong thiên nhiên và trong cuộc sống, rằng tất cả các sinh vật sống hợp thành một thể thống nhất với Đức Chúa Trời, rằng bản thân sự sống là hiện thân bản chất thần thánh của Ngài. Họ sẽ nói rằng bạn có thể thấy được Đức Chúa Trời trong cả giọt nước nhỏ xíu lẫn trong vòm trời đồ sộ.

Hãy hỏi nhà triết học thì ông ta sẽ đáp với bạn rằng Đức Chúa Trời là một lực ban đầu không đổi, đứng đằng sau toàn bộ tạo vật, rằng Ngài chính là một nguồn năng lượng vận động cả thế giới, rằng Ngài là một sức mạnh không đầu không cuối. Nhà triết học sẽ bảo rằng mọi hiện tượng của sự sống và của cái đẹp mà ta đang thấy là hiện thân của sức mạnh đó, cái sức mạnh tuôn ra liên tục từ nguồn năng lượng kia rồi lại quay về chính nguồn.

Hãy hỏi tiếp, và bạn có thể sẽ được nghe nói rằng Đức Chúa Trời là Mọi Sự trong Mọi Sự, và không ai có thể biết gì hơn nữa về Ngài. Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về Đức Chúa Trời. Mỗi xứ sở, mỗi giống người hay mỗi dân tộc, mỗi gia đình, mỗi cá nhân đều thử định nghĩa cái Sinh Vật Tối Cao đang làm chuyển động cả thế giới kia. Con người ở mọi thời đại đều cố tìm hiểu Đấng Tạo Hóa, đấng mà tạo vật của Ngài thì họ trông thấy, song chính Ngài thì họ chưa biết. Trong số những lời giải thích kia thì lời nào là đúng ? Ta phải tiếp thu học thuyết nào trong một mớ những học thuyết kia ? Ta phải tuân theo cái nào trong số những uy quyền mạo nhận kia ?

Như bạn đã thấy trong chương trước, Đức Chúa Trời tự bày tỏ về mình trong một quyển sách mà ta gọi là Kinh Thánh. Nếu tin trong Kinh Thánh có sự mặc khải (tỏ ra) của Đức Chúa Trời cho chúng ta, ta sẽ tìm được sự thỏa mãn hoàn toàn cho cả trí óc lẫn tấm lòng. Chúng ta có thể tin chắc là mình có câu trả lời đúng, là mình đi đúng con đường nhận biết và hiểu bản chất thật của Đức Chúa Trời.

Đức Chúa Trời tỏ ra về mình trong Kinh Thánh, và nếu ta đọc Kinh Thánh thật kỹ lưỡng và đều đặn như ta vẫn đọc báo chí hàng ngày, chúng ta sẽ biết về Đức Chúa Trời nhiều ngang với biết về chính trị và các vận động viên mình thích !


Viên kim cương có rất nhiều mặt, và sự tỏ ra của Đức Chúa Trời về mình cũng thể hiện dưới nhiều dạng đến mức phải hàng tập sách mới tả hết được. Vì không đủ chỗ, chỉ cần chỉ ra bốn điều trong số đó, là bốn điều có ý nghĩa quan trọng nhất và ta phải luôn nhớ.

Thứ nhất : Kinh Thánh gọi Đức Chúa Trời là thần (linh). Trong khi nói chuyện với một phụ nữ bên giếng Si-kha, Jêsus đã định nghĩa hoàn toàn chính xác về Đức Chúa Trời như sau : "Đức Chúa Trời là thần" (Giăng 4:24).

Bạn nghĩ gì khi nghe đến chữ "thần" ? Hình ảnh nào hiện lên trước con mắt tinh thần của bạn ? Bạn có hình dung một đám mây mơ hồ trên trời không ? Hay bạn cho rằng thần là một cái gì giống như con ma vẫn dọa bọn trẻ con ? Hay thần đối với bạn là một cái gì vô hình ? Bạn có nghĩ rằng khi bảo "Đức Chúa Trời là thần" Đấng Christ có ý nói như vậy hay không ?

Để làm sáng tỏ xem "thần" thật ra là gì, và Đấng Christ định nói gì khi dùng chính chữ đó, ta lại phải về với Kinh Thánh, đến đoạn tả cảnh sau khi Đấng Christ sống lại, lúc Ngài nói : "...Hãy rờ đến ta; - thần thì không có thịt xương, mà các ngươi thấy ta có" (Lu-ca 24:39). Nhờ đó mà ta có thể tin chắc rằng thần không có thể xác, thần ngược với thể xác, nhưng tồn tại và có sức mạnh. Chúng ta khó hiểu điều này là vì ta định dùng bản chất xác thịt có hạn và cảm xúc của mình để hiểu.

Là con người đã mất thị giác vô hạn mà ban đầu Đức Chúa Trời định sẵn cho tạo vật của Ngài, chúng ta không hiểu nổi ánh hào quang (vinh hiển) của Đấng Thần (Linh) hiện đang quá xa ngoài giới hạn cảm thụ của ta. Khi nghe đến chữ "thần", ngay lập tức chúng ta đã định thu hẹp chữ đó đến độ lớn rất nhỏ của ta, gò ép nó vào khuôn khổ trí óc nhỏ bé của ta. Cũng giống như khi ta định giải thích độ hùng vĩ và sự bao la khiến phải run sợ của đại dương cho một người chưa bao giờ thấy cái gì to hơn vũng nước mưa ! Người đó làm sao mà tưởng tượng nổi đại dương mênh mông ? Chỉ nhìn một vũng nước bẩn thỉu ngầu đục, làm sao người đó có thể hình dung được độ sâu không đáy, đời sống bí ẩn, sức mạnh tàn phá, vận động không ngừng, sự lạnh lùng khủng khiếp của giông tố hay vẻ đẹp không tả nổi của mặt đại dương phẳng lặng ? Chỉ nhìn vũng nước bẩn, làm sao người đó hiểu được chúng ta nói gì ? Dùng lời lẽ nào mới có thể truyền đạt một cách thuyết phục cho người đó hiểu được vẻ vĩ đại của đại dương hùng mạnh ? Làm sao khiến được người đó tin rằng một điều kỳ diệu như vậy quả là có thật ?

Vậy thì đối với chúng ta, hiểu được Đấng Christ ngụ ý gì khi nói "Đức Chúa Trời là thần" còn khó vô vàn đến đâu nữa ! Jêsus Christ biết vậy ! Trí tuệ của Ngài không hữu hạn như của chúng ta. Cái nhìn của Ngài không tập trung vào vũng nước bẩn của đời sống. Ngài có quyền tiếp cận hết với những lĩnh vực vô hạn của Thần (Linh), và Ngài đến là cho ta hiểu chút gì về các phép lạ, về điều tốt lành, về sự bình an trong đó.

Chúng ta biết thần là cái gì không dính dáng đến thể xác. Thần không hao mòn như thể xác. Thần không thay đổi như thể xác. Kinh Thánh dạy rằng Đức Chúa Trời là một Thần như thế - Ngài không bị giới hạn trong thể xác. Ngài không bị giới hạn trong một hình dạng, Ngài không bị cố định trong các giới hạn. Ngài không bị bất cứ cái gì ràng buộc, không đo lường được và vô hình đối với cặp mắt chỉ đủ khả năng phân biệt những hình thể vật chất. Kinh Thánh dạy chúng ta rằng vì không bị giới hạn nào, Ngài có thể cùng lúc ở khắp mọi nơi. Ngài thấy được mọi thứ, nghe được mọi thứ và biết được mọi thứ.

Chúng ta thì không thế được và vì thế muốn giới hạn Đức Chúa Trời theo khuôn mẫu hữu hạn của chính mình. Chúng ta muốn phủ nhận việc Đức Chúa Trời đủ sức làm những điều mà tự ta không làm được. Chúng ta cố chứng tỏ rằng, nếu con người không thể có mặt ở khắp nơi, thì Đức Chúa Trời cũng không có mặt ở khắp nơi được ! Chúng ta thật ra giống một người, sau khi nghe nói đến đại dương, rốt cục cũng định tìm đến đại dương, và tìm đến rồi bèn múc vài giọt nước vào lòng bàn tay.

"A, - người ây kêu lên, - rốt cục đại dương đã thuộc về ta ! Ta đang cầm nó trong tay, nó là của ta !" Và thật ra, một phần đại dương thuộc về người đó, nhưng cùng lúc đó bao người trên hàng ngàn bãi biển khác cũng có thể múc lấy vài giọt nước đại dương vào lòng bàn tay. Hàng triệu người có thể tập trung ở bờ biển và múc đầy nước vào lòng bàn tay mình. Cứ cho họ múc bao nhiêu tùy thích, bao nhiêu tùy ý - đại dương vẫn chẳng suy suyển gì hết. Sức mạnh hùng hậu của đại dương vẫn như cũ, sự sống dưới những vực sâu không đáy của nó vẫn sẽ tiếp diễn như cũ, dù đại dương đã thỏa mãn hết mọi nhu cầu của từng con người chìa tay về phía nó trên khắp các bờ biển.

Với Đức Chúa Trời cũng như vậy. Ngài có thể ở khắp mọi nơi và trong cùng một lúc, tiếp nhận lời cầu nguyện của mọi người nhân danh Jêsus mà kêu cầu Ngài, khiến thế giới đầy những phép lạ, giữ các vì sao ở nguyên chỗ của chúng, cho phép phôi thai từ hạt giống biến thành mầm sống và chỉ đường cho loài cá bơi giữa biển. Đối với Đức Chúa Trời không có giới hạn nào. Đối với sự khôn ngoan của Ngài không có giới hạn nào. Đối với sức mạnh của Ngài không có giới hạn nào. Đối với tình yêu của Ngài cũng không có giới hạn. Đối với sự thương xót của Ngài cũng không có giới hạn nữa.

Nếu bạn định giới hạn Đức Chúa Trời - hãy dừng lại ! Đừng toan giới hạn Ngài hay sức sáng tạo của Ngài ở bất kỳ nơi nào hay lĩnh vực nào. Bạn đâu có định giới hạn đại dương. Bạn đâu đủ can đảm để thay đổi quĩ đạo của mặt trăng, hay để khiến trái đất ngừng quay quanh trục của nó ! Vậy lại càng ngu ngốc bao nhiêu nếu định giới hạn Đức Chúa Trời, là đấng đã tạo nên mọi thứ và điều khiển mọi phép lạ ấy !

Tôi biết ơn mẹ tôi vô hạn về nhiều điều, nhưng điều tốt lành nhất và còn lại với tôi suốt đời, đó là việc bà dạy tôi từ lúc lên mười rằng Đức Chúa Trời là Thần, Vô Tận, Vĩnh Cửu và Bất Biến. Định nghĩa này về Đức Chúa Trời đi theo tôi cả đời, mà khi một người nhận thức được trong lòng rằng Đức Chúa Trời là Đấng Vô Tận, Vĩnh Cửu và Bất Biến, điều này sẽ giúp người đó thắng được cám dỗ muốn giới hạn Đức Chúa Trời và chiến thắng mọi nghi ngờ về khả năng hoàn thành những gì con người không thể tự làm của Ngài !


Một số người không tin Kinh Thánh là Lời Chúa thực sự, họ nghi ngờ là vì họ không muốn gán cho Đức Chúa Trời cái gì mà họ không tự đạt được. Nếu bạn có chút thiếu tin tưởng nào vào tính hà hơi của Kinh Thánh - hãy đọc lại Kinh Thánh. Hãy nhìn Kinh Thánh bằng cặp mắt của một người cả đời chỉ thấy vũng nước bẩn mà giờ đây lần đầu tiên được đứng trước đại dương ! Có thể chỉ khi đó bạn mới lần đầu tiên trông thấy sự hùng mạnh của Đức Chúa Trời tỏa chiếu. Có thể chỉ khi đó bạn mới có thể hiểu đúng được Ngài như vốn dĩ Ngài vẫn có. Vì nếu Đức Chúa Trời thực sự là Thần mà Jêsus đã nói đến thì không có gì phải thắc mắc về tầm nhìn xuyên suốt, về sự toàn năng của Đức Chúa Trời trong các công việc loài người, về sự mặc khải (cảm động, hà hơi) của Ngài cho những đã viết Kinh Thánh. Chỉ cần bạn hiểu Đức Chúa Trời thực sự là Ai và là Gì thì mọi thứ sẽ đâu vào đấy.

Thứ hai : Kinh Thánh lột tả Đức Chúa Trời là một cá thể (tính cách, thân vị). Khắp Kinh Thánh đều nói : "Đức Chúa Trời yêu", "Đức Chúa Trời phán", "Đức Chúa Trời làm". Mọi chúng ta gán cho một cá nhân đều gán được cho Đức Chúa Trời. Cá thể là một thực thể biết cảm nhận, suy nghĩ, mong muốn và có đủ mọi phương tiện để biểu đạt cá tính của mình.

Trên đất này chúng ta giới hạn cá thể trong thể xác (thân thể). Trí tuệ hữu hạn của ta không thể hình dung được cá thể nào không hiện thân bằng xương và thịt. Chúng ta biết cá thể của mình không phải mãi mãi bọc trong thể xác mà bây giờ chúng ta đang có. Chúng ta biết rằng đến lúc chết, cá thể chúng ta sẽ rời thân thể và đi con đường đã định sẵn cho nó. Chúng ta biết hết điều này, nhưng ta vẫn rất khó công nhận.

Thật là một sự tỏ ra lớn lao nếu ta hiểu được rằng cá thể không thể đồng nhất với thực thể vật chất. Đức Chúa Trời không bị ràng buộc bởi xác thịt, nhưng Ngài vẫn là một Cá Thể. Ngài biết cảm giác, suy nghĩ, yêu, tha thứ, thông cảm với chúng ta trong những vấn đề và lo âu mà ta đụng phải.

Thứ ba : Kinh Thánh khẳng định Đức Chúa Trời không phải chỉ là Thần và là một Cá Thể, mà Ngài là một Thực Thể Thánh Sạch và Công Bình. Từ sách Sáng thế ký đến sách Khải huyền Đức Chúa Trời luôn thể hiện mình là một Đức Chúa Trời thánh sạch. Ngài tuyệt đối hoàn thiện trong từng tạo vật. Ngài quá sức thánh sạch để có thể đụng đến con người tội lỗi, quá thánh sạch để chịu nhịn một đời sống tội lỗi. Ngài là Đức Chúa Trời thánh sạch và hoàn hảo.

Giả sử ta có khái niệm chính xác về sự công bình lớn lao của Ngài thì cuộc sống ta, - mỗi người cũng như cả dân tộc, - chắc phải rất khác ! Giá chúng ta có thể nhận thức được cái hố sâu kinh hoàng ngăn cách con người tội lỗi với sự công bình hoàn thiện của Đức Chúa Trời thì thế giới này đã khác. Kinh Thánh gọi Đức Chúa Trời là sự sáng không có một chút tối tăm nào lẫn vào - Thực Thể Tối Cao duy nhất không hề bị bóng đen và không hề bị chê trách.

Đây lại là một khẳng định nữa mà con người không hoàn thiện khó hiểu. Chúng ta yếu đuối và sai lầm khắp nơi, cho nên khó mà hình dung được sự thánh sạch áp đảo trong mọi sự của Đức Chúa Trời, nhưng nếu muốn hiểu và được lợi từ Kinh Thánh, ta cần công nhận sự thánh sạch ấy.

Cái vực sâu ngăn cách con người không hoàn thiện với Đức Chúa Trời hoàn thiện được khắc họa đậm nét trong cả Kinh Thánh. Ta thấy được điều đó trong việc chia đền tạm thành nơi thánh và nơi chí thánh. Của lễ phải dâng theo qui định (khi tội nhân muốn đến gần Đức Chúa Trời) cũng chỉ ra điều đó. Nó được nhấn mạnh qua việc có những người hầu việc thánh đặc biệt làm trung gian giữa Đức Chúa Trời với con người. Điều này được nhấn mạnh qua các luật lệ về sự thánh sạch trong sách Lê-vi ký. Ta thấy điều đó trong nhiều ngày lễ của dân Do Thái, trong tính biệt lập của Y-sơ-ra-ên ở Pa-le-xtin. Sự thánh sạch của Đức Chúa Trời quyết định mọi nguyên tắc khác của Đức Chúa Trời.

Kinh Thánh nói rằng ngôi của Đức Chúa Trời đứng vững trên sự thánh sạch của Ngài. Sự thánh sạch của Đức Chúa Trời và sự không thánh sạch của con người gây nên hậu quả là cái hố sâu như vậy giữa Ngài với tội nhân chưa ăn năn. Kinh Thánh dạy rằng sự gian ác của chúng ta đã ngăn cách chúng ta với Đức Chúa Trời - đến nỗi mặt Ngài bị che khuất khỏi chúng ta và Ngài không nghe thấy tiếng ta kêu cầu.

Đức Chúa Trời quá thanh sạch để có thể nhìn điều ác một cách thân thiện. Ngài quá thánh để có thể có chút liên hệ nào với tội lỗi. Trước khi cái ác xâm nhập vào loài người, Đức Chúa Trời và con người từng giao tiếp với nhau. Giờ đây mối tương giao đó đã bị phá hủy, mọi liên hệ của người với Trời mất đi, chỉ trừ thông qua Jêsus Christ mà thôi. Chỉ qua Jêsus Christ con người mới có thể khôi phục mối dây liên lạc với Đức Chúa Trời một ngày nào đó.

Con người tự thân là kẻ phạm tội (tội nhân), con người bất lực trước việc thay đổi địa vị của mình, bất lực trước việc dùng cái lưỡi tội lỗi của mình mà kêu cho thấu đôi tai trong sạch của Đức Chúa Trời. Con người lẽ ra đã chết vĩnh cửu nếu Đức Chúa Trời với lòng thương xót vô hạn của Ngài không sai Con mình bắc chiếc cầu qua vực sâu kia.

Chính trong sự thánh sạch của Đức Chúa Trời ta tìm được nguyên nhân cái chết của Đấng Christ. Sự thánh sạch của Ngài đòi hỏi phải trừng phạt nặng nề vì tội lỗi, và tình yêu của Ngài đã quyết định là Jêsus Christ sẽ chuộc lỗi đó và như vậy mang lại cho loài người sự cứu rỗi. Đức Chúa Trời mà chúng ta thờ lạy là một Đức Chúa Trời công bình, một Đức Chúa Trời thánh sạch, một Đức Chúa Trời công bằng, và Ngài gửi Con một của Ngài cho chúng ta, để mở đường cho ta đến với Ngài. Song nếu ta chẳng để ý tới sự cứu trợ của Ngài, nếu không tuân thủ các luật lệ Ngài đặt ra, ta không thể kêu xin Ngài thương xót, khi đó sự trừng phạt thích đáng sẽ đổ xuống đầu ta !

Thứ tư : Đức Chúa Trời là tình yêu thương. Nhiều người không đọc Kinh Thánh không hiểu được câu "Đức Chúa Trời là tình yêu thương" (I Giăng 4:8), cũng như họ không hiểu nổi các mặt khác của bản thể Đức Chúa Trời.

Chúng ta không phải lúc nào cũng biết chắc mình định nói gì khi dùng hai chữ "tình yêu". Đây là một trong những từ bị lạm dụng nhiều nhất trong ngôn ngữ của ta. Ta dùng hai chữ tình yêu để chỉ cả quan hệ thấp kém nhất lẫn cao thượng nhất của con người. Chúng ta nói là "yêu" du lịch; "yêu" bánh ngọt; "yêu" chiếc xe hơi mới, hay giấy dán tường trong phòng mình. Phải, ta cũng còn nói là "yêu" những người xung quanh, nhưng đa số chúng ta đều chỉ nói vậy thôi, chứ không coi lời đó ra nghĩa lý gì. Chẳng có gì lạ là ta không hiểu Kinh Thánh nói "Đức Chúa Trời là tình yêu thương" nghĩa là gì.

Đừng lầm tưởng nếu Đức Chúa Trời đã là tình yêu thương thì mọi việc phải tốt đẹp hết, tuyệt vời hết, sung sướng hết, và sẽ không ai bị phạt vì tội lỗi mình. Sự thánh sạch của Đức Chúa Trời đòi hỏi mọi tội lỗi phải bị trừng phạt, nhưng tình yêu thương của Đức Chúa Trời thì tìm ra kế hoạch và đường lối để cứu tội nhân. Tình yêu của Đức Chúa Trời đã dẫn đến việc đóng đinh Jêsus, nhờ Jêsus mà con người được tha thứ và được tẩy sạch. Tình yêu thương của Đức Chúa Trời đã sai Jêsus bước lên thập tự giá.

Đừng nghi ngờ tình yêu tối vĩ đại của Đức Chúa Trời, vì tình yêu ấy là bản chất bất biến của Đức Chúa Trời, cũng như sự thánh sạch của Ngài. Dù tội lỗi của bạn đen tối đến đâu, Đức Chúa Trời vẫn yêu thương bạn. Nếu không có tình yêu ấy, chẳng ai trong chúng ta có được hy vọng vào cuộc sống tương lai. Song, Đức Chúa Trời là tình yêu thương ! Và tình yêu của Ngài đối với chúng ta là vĩnh cửu. "Nhưng Đức Chúa Trời tỏ lòng yêu thương Ngài đối với chúng ta, khi chúng ta còn là người có tội, thì Đấng Christ vì chúng ta chịu chết" (Rô-ma 5:8).

Những lời hứa yêu thương và tha thứ của Đức Chúa Trời đủ hiện thực, đủ tích cực và đáng tin cậy để ngôn ngữ loài người có thể diễn đạt được. Nhưng không có lời mô tả nào cho ta thấy hết vẻ đẹp của đại dương, trừ phi bạn được thấy tận mắt. Với tình yêu của Đức Chúa Trời cũng y như vậy. Chừng nào bạn chưa thực sự tiếp nhận tình yêu đó, chưa thực sự nếm trải nó, chừng nào bạn chưa thực sự làm lành với Đức Chúa Trời, không ai tả nổi cho bạn các phép lạ của Ngài.

Đây không phải là thứ bạn có thể hiểu được bằng đầu óc. Trí tuệ hữu hạn của bạn không đủ sức hiểu thấu một điều vĩ đại như tình yêu của Đức Chúa Trời. Trí óc khó mà giải thích được cho bạn hiểu tại sao con bò màu đen ăn được cỏ xanh và cho ra sữa trắng - nhưng bạn vẫn ăn sữa đó và được dinh dưỡng. Trí óc của bạn không thể phát hiện được hết các quá trình phức tạp diễn ra khi bạn gieo một hạt giống nhỏ xíu tầm thường, rồi từ hạt giống nhỏ đó mọc ra một cái thân dài, và trên thân đó có những quả dưa hấu ngoài xanh trong đỏ đang chín - nhưng bạn vẫn ăn dưa hấu và vui thích về nó ! Trí óc của bạn không đủ sức giải thích cho bạn biết thế nào là điện, chính cái điện đang thắp sáng có thể chính trong lúc này, khi bạn đọc những dòng này, song bạn biết rằng có điện và điện ấy cho phép bạn đọc sách.

Bạn cần tiếp nhận Đức Chúa Trời bằng đức tin, đức tin vào Con của Ngài - là Cứu tinh Jêsus Christ của chúng ta. Và khi việc này xảy ra, bạn sẽ chẳng còn chỗ nào để nghi ngờ nữa. Lúc đó lòng bạn sẽ không còn thắc mắc là có Đức Chúa Trời hay không nữa, đơn giản là bạn sẽ biết Ngài.

Nếu có ai hỏi làm sao tôi tin chắc được rằng Đức Chúa Trời thực sự là Ai và là Gì, thì tôi lại nhớ đến chuyện một cậu bé thả diều. Trời rất đẹp để đi thả diều, gió mạnh và có những đám mây lớn trôi ngang trời. Con diều bốc càng ngày càng cao, và rốt cục mất tăm trong đám mây.

- Cháu làm gì vậy ? - có người hỏi đứa bé.

- Cháu thả diều. - nó đáp.

- Thế á ? Sao cháu biết ? Cháu có trông thấy diều đâu ?

- Vâng, - thằng nhỏ đáp, - cháu không nhìn thấy nó, nhưng lúc nào cháu cũng cảm thấy nó kéo căng dây, nên cháu biết chắc là nó vẫn còn !

- Đừng lẫn lộn lời người ta với Lời của Đức Chúa Trời. Hãy vì chính mình mà tìm kiếm Ngài, thì trong tim bạn sẽ bừng lên ngọn lửa, và bạn sẽ biết tuyệt đối chắc chắn là Ngài có thật.


Chương bốn: Tội lỗi

"Vì mọi người đều đã phạm tội, đánh mất sự vinh hiển của Đức Chúa Trời."
Rô-ma 3:23

Nếu Đức Chúa Trời là một thực thể công bằng và biết yêu thương, tại sao lại có bao nhiêu điều ác, bao nhiêu đau khổ và tai họa như vậy ? Hận thù kia từ đâu ra ? Vì sao chúng ta tự dựng nên cho mình những thần tượng giả dối ? Vì sao chúng ta thờ lạy chiến tranh, lòng tham và lợi lộc của cá nhân mình ? Tại sao những con người được Đức Chúa Trời dựng nên theo tượng của Ngài lại tụt xuống đến cái mức đồi bại đến nỗi Đức Chúa Trời phải đặt ra mười điều răn để ra lệnh cho họ tuân theo ? Vì sao để cứu chúng ta Đức Chúa Trời lại phải sai Con của Ngài ? Vì sao các tạo vật của Đức Chúa Trời lại đầy xấu xa và độc ác như vậy ?

Để hiểu được điều đó, để thấy được lý do tại sao dân này lại nổi lên chống dân kia, tại sao gia đình băng hoại, tại sao tờ báo nào cũng đầy những tin tức về nạn bạo lực, điên rồ, tàn bạo và hận thù, chúng ta cần trở về cội nguồn. Ta cần trở lại câu chuyện A-đam ở vườn địa đàng, trong chương đầu của sách Sáng thế ký.

Một số người nói rằng câu chuyện sáng tạo loài người mà ai cũng biết này chỉ là thần thoại. Họ khẳng định đó chỉ là cách giải thích giản đơn điều không giải thích nổi để trả lời các thắc mắc của lũ trẻ con. Nhưng không phải thế. Kinh Thánh kể lại cho ta biết một cách chính xác điều gì xảy ra lúc ban đầu, và tại sao từ đó trở đi nhân loại cứ đi mãi trên con đường tự hủy diệt.

Đức Chúa Trời sáng tạo thế giới là một tổng thể hoàn thiện. Ngài tạo ra thế giới tuyệt vời, đầy hài hòa và đẹp đẽ. Thế giới là hoàn thiện nhưng đã bị con người chối bỏ, và hiện giờ chúng ta vẫn đang nuối tiếc, mong tìm lại nó cho được.

Đức Chúa Trời ban cái thế giới hoàn hảo đó cho con người. A-đam vốn hoàn thiện, vì không có gì Đức Chúa Trời tạo ra mà lại không hoàn thiện, và con người hoàn thiện ấy được Đức Chúa Trời ban cho món quà quí báu nhất là tự do. Đức Chúa Trời cho con người được quyền tự do lựa chọn.

Con người đầu tiên chẳng phải là sống trong hang đá, chẳng phải là một sinh vật rừng rú run rẩy hay gầm thét, cố sức khuất phục rừng rậm và thú dữ. A-đam vốn được tạo dựng là một con người hoàn thiện có những khả năng chân tay cũng như khả năng tinh thần phát triển trọn vẹn. A-đam đi lại cùng Đức Chúa Trời và trò chuyện với Ngài. A-đam lẽ ra phải là chúa tể thế giới, cai quản thế giới theo ý Đức Chúa Trời.

Khi còn trong vườn địa đàng, địa vị của A-đam là như vậy : con người hoàn thiện, con người đầu tiên, tạo vật duy nhất nơi trần gian được Đức Chúa Trời ban cho món quà quí giá là tự do. A-đam có quyền tự do tuyệt đối, tự do công nhận hay từ chối, tự do tuân lệnh Đức Chúa Trời hay phản nghịch, tự do làm cho mình trở thành hạnh phúc hay bất hạnh. Bởi vì không phải chỉ tự do là đủ mang lại thỏa mãn cho cuộc sống ta, mà những gì ta làm trong quyền tự do đó mới quyết định chúng ta có hòa thuận với nhau và với Đức Chúa Trời hay không.

Bản chất thật của vấn đề là ở đây, bởi vì vào thời điểm con người được tự do, trước mặt anh ta mở ra hai con đường. Tự do là vô nghĩa, nếu chỉ có một con đường để chọn. Tự do có nghĩa là quyền chọn lựa, chọn lọc, tự quyết định hành vi của mình.

Chúng ta ai cũng biết có những người thật thà, nhưng tự nhiên thì ít, mà do họ không có dịp để gian dối thì nhiều. Chúng ta ai cũng biết có những người rất tự hào họ là người tốt, trong khi thật ra là hoàn cảnh xung quanh và lối sống đã gìn giữ họ khỏi làm điều ác. Chúng ta không thể cho mình là chống cự nổi cám dỗ, nếu chưa bao giờ bị cám dỗ.

Đức Chúa Trời không gây trở ngại cho A-đam chút nào. Ngài đảm bảo cho A-đam quyền tự do lựa chọn và tạo mọi điều kiện để có thể sử dụng quyền ấy. Vì Đức Chúa Trời không thể tạo ra thứ gì khác ngoài thứ hoàn thiện, Ngài đã cho A-đam một điều kiện hoàn hảo, thích hợp để thử thách xem A-đam có hầu việc Đức Chúa Trời hay không.

Khi ở trong địa đàng, A-đam không có tội lỗi, sự hồn nhiên của A-đam không chút tì vết. Trước mặt ông là cả thế giới trải rộng. Lịch sử chưa thành danh của nhân loại nằm trước mặt ông như một cuốn sách khổng lồ giấy trắng tinh, chỉ chờ ông viết vào trang đầu tiên - chờ ông quyết định con đường các thế hệ tiếp theo sẽ đi.

Đức Chúa Trời đã hoàn thành các công việc của Ngài. Ngài tạo nên vườn địa đàng thừa thãi những gì con người cần. Ngài tạo nên con người hoàn thiện theo tượng của mình. Ngài ban cho con người trí óc cũng như tâm hồn và cho người được tự do sử dụng trí óc và cai quản tâm hồn theo ý mình một cách tuyệt đối. Và, như một người cha anh minh, Ngài chờ xem đứa con sẽ lựa chọn cái gì.

Một thử thách ! Là phút giây A-đam có quyền lựa chọn con đường đúng hay sai theo ý chí tự quyết của mình, không chút ép buộc, có quyền chọn lựa, vì trước mặt ông không phải chỉ có một con đường !

Ông đã chọn. Và ông đã hứng chịu mọi hậu quả của sự lựa chọn đó, đồng thời làm hình mẫu cho cả nhân loại noi theo. "Vậy, như bởi một tội mà sự đoán phạt rải khắp hết thảy mọi người thể nào..." (Rô-ma 5:18).


Vì A-đam là thủy tổ của cả loài người. Nguồn nước trong vắt phun lên từ đất, và nguồn ấy được phép lựa chọn, muốn làm con sông chảy qua những đồng cỏ màu mỡ tuyệt đẹp, hay làm dòng nưới mờ đục muôn đời sói vào vách đá và ngầu bọt giữa những hẻm núi tăm tối sâu thẳm - lạnh lẽo và bất hạnh cho chính mình, mà cũng chẳng mang niềm vui và phù sa cho đất xung quanh.

Không thể chê trách Đức Chúa Trời về tình trạng bi thảm đến tận ngày nay của nhân loại. Lỗi là ở A-đam - chính ông đã được quyền lựa chọn, nhưng lại thích những lời giả dối của kẻ cám dỗ hơn là chân lý của Đức Chúa Trời. Lịch sử nhân loại từ lúc này và cho đến tận ngày nay chính là chuyện những cố gắng vô ích của con người nhằm lấy lại cho mình địa vị đã mất khi A-đam sa ngã.

- Nhưng thế là không công bằng ! - bạn sẽ nói vậy. - Sao ngày nay chúng tôi lại phải chịu khổ chỉ vì con người đầu tiên đã phạm tội trong buổi bình minh của các thời đại ? Sao nhân loại trong suốt thời gian đó không lành mạnh lên được ? Tại sao chỉ vì thế mà ta bị trừng phạt cả đời ?

Ta hãy trở lại câu chuyện dòng sông - dòng sông lạnh lẽo, tăm tối chảy dưới đáy một khe đá sâu thẳm và trần trụi. Sao sông không trở lại với những đồng cỏ đẹp đẽ, ấm áp nơi đầu nguồn ? Sao sông không rời bỏ con đường tăm tối và không trở thành dòng nước lấp lánh hạnh phúc như nó vốn là (khi lần đầu chảy ra từ lòng đất) đi ?

Nó không làm thế, vì không làm nổi. Bản thân nó không đủ sức để làm lại sự việc đã rồi kia. Nếu đã rời bỏ bến bờ cát trắng để đến với tối tăm của khe núi, nó không thể lại tự vươn đến miền đất tươi sáng đầy ánh nắng kia nữa. Nhưng phương tiện cho nó vươn lên là có, con đường nằm ngay kề bên, nhưng con sông không hiểu và không biết cách sử dụng con đường ấy.

Phép lạ bao giờ cũng có thể xảy ra để đưa dòng sông nhân loại từ đau thương trở lại thung lũng bình an ấp áp, nhưng nhân loại hoặc không nhìn thấy, hoặc không muốn điều đó. Loài người nghĩ mình không thể làm gì khác ngoài việc tiếp tục con đường khổ ải đến chừng nào nó dẫn họ tan biến trong biển tận diệt.

Câu chuyện dòng sông là lịch sử của con người từ thuở A-đam - con sông uốn lượn, phân nhánh nhưng chỉ chìm sâu hơn vào bóng tối khủng khiếp. Và mặc dù chúng ta lớn tiếng kêu cứu - cũng như A-đam, ta vẫn cứ chọn con đường sai lạc. Trong tuyệt vọng ta đến với Đức Chúa Trời và trách Ngài về hoàn cảnh hiện tại. Chúng ta nghi ngờ sự khôn ngoan của Ngài và tính công bằng của các phán quyết Ngài. Trong lòng thương xót và tình yêu của Ngài ta lại thấy điều xấu xa.

Chúng ta quên mất rằng A-đam vốn đứng đầu cả loài người, cũng như ở nước ta tổng thống đứng đầu mọi công dân. Tổng thống xử sự thế nào thì cả dân Mỹ xử sự như thế cùng với ông. Khi tổng thống quyết định, quyết định đó có hiệu lực ngang với quyết định của cả dân tội.

A-đam đứng đầu cả nhân loại. Khi ông sa ngã, khi ôngkhuất phục trước cám dỗ, cả những thế hệ chưa ra đời cũng sa ngã cùng ông, vì Kinh Thánh chỉ rất rõ rằng tội lỗi của A-đam sẽ bị trừng phạt ở từng dòng dõi của ông nữa. Chúng ta tất cả đều biết quá rõ sự thật cay đắng trong những dòng Kinh Thánh mô tả bi kịch định sẵn cho ta chỉ vì hành vi của A-đam. "...Đất sẽ bị rủa sả vì ngươi; trọn đời ngươi phải chịu khó nhọc mới có vật đất sanh ra mà ăn. Đất sẽ sanh chông gai và cây tật lê, và ngươi sẽ ăn rau của đồng ruộng; ngươi sẽ làm đổ mồ hôi trán mới có mà ăn, cho đến ngày nào ngươi trở về đất, là nơi mà có ngươi ra; vì ngươi là bụi, ngươi sẽ trở về bụi" (Sáng thế ký 3:17,19).

Còn với Ê-va, Đức Chúa Trời phán : "Ta sẽ thêm điều cực khổ bội phần trong cơn thai nghén; ngươi sẽ chịu đau đớn mỗi khi sanh con; sự dục vọng ngươi phải xu hướng về chồng, và chồng sẽ cai trị ngươi" (Sáng thế ký 3:16).

Nói cách khác, do tội lỗi ban đầu của A-đam, đất đai vốn trước kia chỉ sản sinh những thực vật có ích và tuyệt đẹp giờ đây cho ra cả cây tốt lẫn xấu. Con người trước kia dạo chơi trong vườn và chỉ cần với tay là hái được thức ăn cho mình, vốn chẳng cần quần áo, chẳng cần giường nằm, bây giờ phải lao động cả đời để nuôi mình và nuôi gia đình. Người đàn bà, vốn trước kia vô tư lự nhất, thì giờ đây bị bệnh tật và đau đớn đè nặng; và cả đàn ông lẫn đàn bà đều phải chịu hình phạt cái chết thể xác cũng như tinh thần.

Tội lỗi xâm nhập vào nhân loại qua A-đam, và từ đó đến nay nhân loại vẫn cố thoát khỏi nó một cách vô hiệu. Kinh Thánh dạy rằng Đức Chúa Trời đã cảnh cáo A-đam trước khi ông phạm tội rằng nếu ông ăn trái cây biết điều thiện điều ác, ông sẽ chết. Kinh Thánh cũng nói rằng Đức Chúa Trời đã định trước cho A-đam và Ê-va sẽ sinh con cháu, thêm nhiều lên và sống khắp trên đất. Dù chính A-đam và Ê-va được dựng nên theo tượng của Đức Chúa Trời, sau khi sa ngã họ chỉ truyền lại được cho con cháu tượng riêng của mình. Hậu quả là ngay Ca-in với A-bên cũng đã nhiễm căn bệnh tội lỗi chết người thừa hưởng từ cha mẹ và truyền lại cho mọi thế hệ sau. Chúng ta tất cả đều là tội nhân di truyền, và dù ta cố gắng đến mấy cũng không tránh khỏi tội lỗi mình.

Chúng ta dùng nhiều phương cách để trả lại cho mình địa vị mà A-đam đã làm mất. Chúng ta thử dùng học vấn, triết học, tôn giáo, chính trị để quẳng cái gánh nặng tội lỗi và thói hư tật xấu đi. Chúng ta cố dùng trí óc bị tội lỗi giới hạn của mình để thực hiện những công việc mà Đức Chúa Trời đã định cho con người phải thực hiện khi có một tri thức chỉ trời mới cho được. Những động cơ tốt đẹp hướng dẫn ta, và một vài cố gắng của ta là đáng khen, song tất cả những thứ đó còn xa, còn xa mới đạt được mục tiêu. Mọi tri thức, phát minh của ta, toàn bộ sự phát triển và những kết hoạch háo danh thúc đẩy ta tiến bộ đều rất ít ý nghĩa, chừng nào ta chưa quay về điểm xuất phát của con đường. Bởi vì chúng ta vẫn lặp lại sai lầm của A-đam - chúng ta vẫn cố dùng quyền riêng và lực riêng để làm vua, thay vì vâng phục luật lệ của Đức Chúa Trời.

Trước khi bảo Đức Chúa Trời là không công bằng hay không đúng vì đã để tội lỗi thống trị thế gian, ta hãy xem xét tình thế một cách kỹ lưỡng hơn. Với lòng thương xót vô hạn, Đức Chúa Trời đã sai Con Ngài đến để chỉ cho ta lối thoát khỏi tình trạng khốn khó. Ngài sai Con của mình để bắt Con ấy chịu đúng những thử thách mà trước đó A-đam đã chịu, và chiến thắng chúng. Sa-tan cám dỗ Jêsus Christ hệt như đã cám dỗ A-đam. Ma quỉ hứa cho Jêsus Christ quyền lực và vinh quang, nếu Ngài chối bỏ Đức Chúa Trời, cũng hệt như nó đã hứa với A-đam qua miệng Ê-va.

Nhưng có sự khác biệt rất lớn trong cách Jêsus Christ chống trả cám dỗ ! Khi ma quỉ cho Ngài xem các nước thế gian và hứa cho Ngài toàn bộ sự vinh hiển của các nước ấy nếu đi theo nó chứ không phải theo Đức Chúa Trời, Đấng cứu tinh của chúng ta đã nói : "...Quỉ sa-tan, ngươi hãy lui ra ! Vì có lời chép rằng : Ngươi phải thờ phượng Chúa là Đức Chúa Trời ngươi, và chỉ hầu việc một mình Ngài mà thôi" (Ma-thi-ơ 4:10). Ngài hoàn toàn đắc thắng trước kẻ cám dỗ và tỏ cho mọi dân tộc cũng như mọi thế hệ loài người về sau biết bản chất vô tội của mình.

Theo sự yếu đuối cũng như bản tính xấu xa của mình, chúng ta đã chứng tỏ mình là con cháu thật của A-đam và ngoan ngoãn nối bước ông. Chúng ta có thể rủa sả A-đam, nhưng vẫn cứ bắt chước ông !

Không có ngày nào mà chúng ta không phải chịu những cám dỗ y như A-đam đã từng chịu. Không có ngày nào mà ta không có dịp lựa chọn giữa những hứa hẹn xảo quyệt của ma quỉ với Lời thực của Đức Chúa Trời. Ngày nào chúng ta cũng có cơ hội chính mình tiến gần hơn và giúp người khác cũng tiến gần hơn tới khu vườn thực và tuyệt đẹp mà A-đam đã coi thường.

Ta nhung nhớ một ngày mà thất vọng, bệnh tật và cái chết tan biến, - nhưng giấc mơ ấy không thể nào thành hiện thực chừng nào chúng ta vẫn còn là những con cháu chưa được tái sinh của A-đam. Chúng ta phải tính sổ cách nào đó với những tội lỗi của mình. Trong các chương sau chúng ta sẽ thấy Đức Chúa Trời đã làm gì để giải quyết những vấn đề cơ bản của nhân loại.

Từ đầu các thời đại cho đến ngày nay, tham muốn quyền lực một cách vô đạo và quyết tâm sử dụng quyền tự do lựa chọn của mình nhằm các mục đích cá nhân vị kỷ đã dẫn con người đến bờ vực của sự hư mất. Tàn tích của nhiều nền văn minh rải rác khắp bề mặt trái đất là bằng chứng không lời về sự bất lực của con người trong việc xây dựng trong thế giới này một điều vĩnh cửu mà không cần đến Đức Chúa Trời. Những tàn tích mới, những bất hạnh mới vẫn tiếp tục xuất hiện hàng ngày, vậy mà con người vẫn cứ đi xa nữa trên con đường nguy hại của mình.


Đức Chúa Trời, theo sự khôn ngoan vô tận và sự thương xót của Ngài, đã thấy trước và đã chờ đợi nhẫn nhục và cảm thông quá mọi sức tưởng tượng. Ngài chờ có dịp trình bày sự cứu rỗi cá nhân và hòa bình cho những ai cầu cứu sự thương xót của Ngài. Hai nẻo đường mà Đức Chúa Trời đã đặt ra trước A-đam vẫn đang nằm trước mặt chúng ta. Chúng ta vẫn còn được tự do lựa chọn. Chúng ta đang sống trong kỷ nguyên thương xót, khi Đức Chúa Trời vẫn còn trì hoãn hình phạt mà chúng ta - công bằng ra - đáng phải chịu.

Sự tồn tại của tội lỗi không cho con người cơ hội được hạnh phúc, vì tại tội lỗi mà con người không bao giờ có thể vươn tới cái ảo vọng mình vẫn mong mỏi. Kế hoạch nào, nền văn minh nào mà con người lập lên sau cùng cũng sụp đổ và chìm vào quên lãng, vì mọi công việc của loài người đều khởi đầu bên ngoài sự công bình. Những tàn tích đổ nát hôm nay bao quanh ta chứng minh hùng hồn về tội lỗi mà cả nhân loại đã chìm đắm ở trong.

Con người có lẽ đã mất đi khái niệm về qui luật nhân quả vĩnh cửu, có hiệu lực trong mọi mặt của vũ trụ chúng ta. Hậu quả đã rõ, song cái nguyên nhân sâu kín và bao trùm thì lại có vẻ không rõ. Có thể tính hào nhoáng của triết lý "tiến bộ" đã làm lóa mắt người. Có lẽ con người đã quá say mê chính cái học thuyết ngu ngốc của mình đến nỗi cứ bám chặt lấy niềm tin là nhân loại dù chậm song thực sự đang tiến bước trên con đường dẫn đến sự hoàn thiện sau cùng.

Nhiều triết gia thậm chí phản đối rằng bi kịch hiện tại của thế giới chẳng qua là hiện tượng ngẫu nhiên trên con đường tiến tới cái cao hơn, và họ chỉ ra những trường hợp khác trong lịch sử nhân loại, khi viễn cảnh cũng tăm tối như vậy, và lối thoát tưởng chừng cũng vô vọng như vậy. Các triết gia muốn nói rằng những điều kiện như chúng ta đang sống không phải gì khác mà chính là những cơn đau sinh nở của một ngày mai sán lạn đang tới ! Họ sẽ bảo nhân loại vẫn còn là trẻ thơ vấp ngã trong cái vườn trẻ của buổi tồn tại mình, và vẫn còn xa mới trở thành những thực thể trí tuệ và trưởng thành như sau vài trăm năm nữa.

Song Kinh Thánh nói rất rõ về điều mà các ngành khoa học tự nhiên có lẽ không hào hứng công nhận cho lắm, mà cụ thể là : bản thân thiên nhiên cũng chứng tỏ sự có mặt của cả Đấng Tạo hóa lẫn kẻ cám dỗ. Con người trách cứ Đấng Tạo Hóa vì những hành vi của kẻ cám dỗ. Nhưng con người quên mất rằng thế giới của chúng ta đã không còn như lúc ban đầu Tạo Hóa vừa dựng nên; nó đã biến chất. Đức Chúa Trời tạo nên thế giới thật tuyệt vời, nhưng tội lỗi đã hủy hoại thế giới. Đức Chúa Trời tạo nên con người trong sạch, nhưng tội lỗi đã lọt vào trong con người và khiến người thành xấu xa. Mọi biểu hiện của cái ác đều là kết quả của một tội chính, cái tội vẫn không thay đổi gì kể từ khoảnh khắc nó xâm nhập vào nhân loại. Nó có thể biểu hiện ra bằng các cách khác nhau, nhưng về bản chất chính cái tội đó đã khiến một thổ dân Phi châu băng rừng với ngọn giáo lăm lăm trong tay để tìm nạn nhân của mình, cũng như khiến một phi công có học vấn, được đào tạo kỹ càng bay trên chính cánh rừng đó trên chiếc máy bay phản lực mà dội bom xuống làng mạc đang không chút ngờ vực.

Hai con người đó cách biệt nhau hàng trăm năm văn hóa. Một người có thể được coi là "tiến bộ" hơn người kia; một người có mọi ưu thế của một nền văn minh do loài người tạo nên, người kia vẫn còn ở trạng thái "sơ khai" - và dù vậy, thật ra họ có khác nhau không ? Lẽ nào cả hai không phải đều bị thúc đẩy bởi cùng một nỗi sợ hãi và cùng một nỗi ngờ vực đối với kẻ cùng thời kia của mình ? Lẽ nào cả hai đều không bị ám ảnh bởi mong muốn ích kỷ là bắn trúng đích, không cần biết anh em mình phải trả giá ra bao nhiêu ? Lẽ nào quả bom là ít khốc liệt, ít dã man, hay văn minh hơn so với ngọn giáo thô sơ kia ? Lẽ nào chúng ta có thể tìm được giải pháp cho các nan đề của mình, trong khi những người "nguyên thủy" hơn và những người "tiến bộ" hơn trong số chúng ta vẫn đang tìm cách giết chóc hơn là yêu thương kẻ xung quanh mình ?

Mọi hoạn nạn, mọi cay đắng, mọi bạo lực, bi kịch, đau đớn và nhục nhã trong lịch sử nhân loại gói gọn trong hai chữ ngắn - tội lỗi. Đây không phải là một từ phổ biến, và nhất định cũng không còn thịnh hành (mốt) nữa - nhưng nó chính xác kinh khủng !

Người ta không thích bị gọi là tội nhân, kể cả khi cha mẹ và ông bà họ trước đó cũng đã là tội nhân. Nhưng Kinh Thánh nói : "Chẳng có phân biệt chi hết, vì mọi người đều đã phạm tội, thiếu mất sự vinh hiển của Đức Chúa Trời" (Rô-ma 3:22-23). Kinh Thánh tuyên bố rằng mọi người trên trái đất đều là tội nhân trong con mắt Đức Chúa Trời; và nếu tôi có nghe nói ai lập ngoại lệ cho cái kết luận khắc nghiệt kia, tôi lại nhớ đến chuyện một người đến gặp mục sư hỏi về tội lỗi.

- Mục sư kính mến, - người đó nói với mục sư - trong giáo phận này chúng tôi muốn ông không nói về tội lỗi nhiều và dứt khoát như thế. Chúng tôi có cảm giác rằng khi bọn thanh thiếu niên nghe nhiều về tội lỗi như vậy, chúng nó sẽ càng dễ phạm tội hơn. Sao ông không nói là "sai phạm" thôi, hay là ông cứ bảo rằng đám trẻ của chúng ta thường phạm lỗi ở chỗ "thiếu suy xét" ? Xin ông đừng nói toẹt ra về tội lỗi như vậy.

Ông mục sư đứng dậy, lấy từ trên kệ xuống một cái chai có chứa chất độc và cho người kia xem. Trên chai có đề một dòng chữ màu đỏ to : "Chất độc ! Không sờ mó !"

- Ông muốn tôi phải sao ? - ông mục sư hỏi - Chẳng lẽ ông cho rằng tôi đúng ra phải bóc cái nhãn này đi và dán thay vào một cái nhãn khác, chẳng hạn đề là : "Rượu bạc hà" hay sao ? Chẳng lẽ ông không thấy cái nhãn càng có vẻ vô hại thì cái bên trong lại càng nguy hiểm hay sao ?

Tội lỗi - cái tội trần trụi và nguyên thủy, chính cái tội đã làm A-đam sa ngã và làm chúng ta phải khổ sở hôm nay làm hại chúng ta còn nhiều hơn nữa nếu cố tô hồng nó bằng những ngôn từ bóng bẩy. Chúng ta không cần từ mới nào. Cái chúng ta cần chỉ là tìm xem cái từ chúng ta vốn có thật ra có nghĩa là gì ! Vì dù tội lỗi rõ ràng đã chiếm ưu thế trong thế giới ngày nay, vẫn có rất nhiều người chẳng biết gì về ý nghĩa thật của nó. Chính những quan điểm thiển cận và dối gạt kia về tội lỗi đã cản trở nhiều người - nam cũng như nữ - quay về con đường chính nghĩa. Chính sự thiếu hiểu biết thực sự về tội lỗi đã ngăn cản nhiều Cơ Đốc nhân sống một đời sống đích thực trong Đấng Christ.

Một bài thánh ca xưa có câu : "Không phải ai nói đến thiên đàng cũng đều lên được đó", với tội lỗi cũng y như vậy. Không phải ai nói đến tội lỗi cũng có khái niệm rõ ràng đó là gì, và vì thế việc làm quen với quan điểm của Kinh Thánh, xem Kinh Thánh nói gì về tội lỗi là rất quan trọng.

Chúng ta có thể cố tình có thái độ nhẹ dạ đối với tội lỗi và liệt nó vào "những yếu đuối của con người". Chúng ta có thể gọi tội lỗi là chuyện vặt, nhưng Đức Chúa Trời gọi đó là bi kịch. Chúng ta có thể bỏ qua tội lỗi như bỏ qua một tai nạn, nhưng Đức Chúa Trời ghê tởm tội lỗi. Con người muốn thanh minh cho mình về tội lỗi, nhưng Đức Chúa Trời muốn thuyết phục con người đang ở trong tội lỗi và cứu ra khỏi đó. Tội lỗi không phải là món đồ chơi hấp dẫn, mà là nỗi kinh hoàng phải tránh xa ! Hãy biết rõ tội lỗi dưới con mắt Đức Chúa Trời là gì !


Tiến sĩ Richard Bill đưa ra năm định nghĩa về tội lỗi như sau :

Thứ nhất : tội lỗi là phi pháp, là vi phạm luật pháp của Đức Chúa Trời (I Giăng 3:4). Đức Chúa Trời đã qui định ranh giới giữa cái thiện và cái ác, và khi chúng ta vi phạm ranh giới đó, chúng ta có tội trong việc xâm nhập vào khu vực cấm của cái ác, chúng ta phạm luật. Khi chúng ta sống không đúng với mười điều răn, khi chúng ta xử sự ngược với bài giảng trên núi (Ma-thi-ơ 5,6,7 - ND), chúng ta vi phạm luật pháp của Đức Chúa Trời và có tội.

Sứ đồ Gia-cơ nói rõ là tất cả chúng ta đều có tội khi ông chỉ ra : "Nhưng mỗi người bị cám dỗ khi mắc tư dục xui giục mình. Đoạn, lòng tư dục cưu mang, sinh ra tội ác (tội lỗi ND); tội ác đã trọn, sinh ra sự chết" (Gia-cơ 1:14-15). Chính vì tất cả chúng ta đều đã vi phạm luật lệ của Đức Chúa Trời, tất cả đều vi phạm các điều răn của Ngài, mà mọi người đều trở thành tội nhân.

Thứ hai : Kinh Thánh mô tả tội lỗi là sự không công bình. Không công bình là sai lệch khỏi công bình, không cần biết một hành động nhất định có bị cấm đặc biệt hay không. Sự không công bình là cả những động cơ thầm kín, là những gì ta thường cố dấu con mắt người đời và mắt Đức Chúa Trời. Đây phần lớn là những hành vi xuất phát từ bản tính xấu xa của ta, mà có khi ta bị hoàn cảnh bắt buộc.

Jêsus Christ đã mô tả sự xấu xa trong lòng đó khi nói : "Vì thật là từ trong, từ lòng người mà ra những ác tưởng, sự dâm dục, trộm cướp, giết người, tà dâm, tham lam, hung ác, gian dối, hoang đàng, con mắt ganh đố, lộng ngôn, kiêu ngạo, điên cuồng. Hết thảy những điều xấu ấy ra từ trong lòng thì làm cho dơ dáy người" (Mác 7:21-23).

Thứ ba : Kinh Thánh giải thích tội lỗi là sự sai trật khỏi mục tiêu, là sự không trúng đích đã định. Cái đích mà Đức Chúa Trời đặt ra là Đấng Christ. Mục tiêu cũng như mục đích tối hậu của cuộc sống là cố gắng biến đổi càng ngày càng giống Ngài hơn. Ngài đã đến với chúng ta là để chỉ cho thấy con người có thể đạt được gì ở dưới đất này; và khi trốn tránh việc noi gương Ngài, chúng ta đã trượt khỏi đích và rời xa khuôn mẫu của Đức Chúa Trời.

Thứ tư : tội lỗi là tội phạm. Đó là sự tự ý xâm phạm quyền lực của Đức Chúa Trời. Tội lỗi không phải chỉ là tiêu cực, không phải chỉ là thiếu tình yêu đối với Đức Chúa Trời. Tội lỗi là coi trọng mình hơn Đức Chúa Trời, là tập trung tình cảm vào cái tôi của mình thay vì đem mọi tình cảm và mọi sức lực của con tim mà hướng tới Ngài. ích kỷ và tư kỷ cũng là tội lỗi y như trộm cắp và giết người. Đây có thể là một dạng tinh tế và có sức hủy hoại mạnh hơn của tội lỗi, vì dưới hình thức đó rất dễ không để ý đến cái nhãn dán trên chai đựng chất độc. Những ai bám riết lấy chính mình, ai tập trung toàn bộ mối quan tâm của mình vào chính mình, những ai chỉ đeo đuổi các mối quan tâm của mình và chỉ đấu tranh bảo vệ quyền lợi của riêng mình, - những người đó có là tội nhân y như những bợm rượu hay kẻ trụy lạc.

Jêsus Christ đã nói : "Người nào nếu được cả thiên hạ mà mất linh hồn mình thì có ích gì ?" (Mác 8:36). Nếu chuyển những lời này sang ngôn ngữ hiện đại, chúng ta có thể nói : "Người nào làm vua cả một ngành công nghiệp mà bị ung thư làm cho mòn mỏi và chẳng hưởng thụ được gì trong đời thì có ích gì ? Một nhà độc tài chiếm được nửa thế giới mà phải sống luôn trong nỗi sợ viên đạn trả thù hay lưỡi dao ám hại thì có ích gì ? Một người cha giáo dục con mình theo kiểu hà khắc mà rồi kết quả là chúng nó từ bỏ và đẩy ông vào cảnh cô đơn thì có ích gì ?"

Tội ích kỷ quả là một tội chết người.

Thứ năm : tội lỗi là sự vô tín (không tin). Vô tín là tội lỗi, vì vô tín là xúc phạm chân lý của Đức Chúa Trời. "Ai tin đến con Đức Chúa Trời thì có chứng ấy trong mình; còn ai không tin Đức Chúa Trời thì cho Ngài là nói dối, vì chẳng tin đến chứng Đức Chúa Trời đã làm về con Ngài" (I Giăng 5:10).

Chính sự vô tín đóng cửa trời và mở cửa địa ngục. Chính sự vô tín phủ nhận lời Đức Chúa Trời và từ chối Đấng Christ với tư cách là Chúa cứu thế. Chính sự vô tín buộc người ta phải điếc khi nghe Tin lành và bác bỏ những phép lạ của Đấng Christ.

Tội lỗi kéo theo án tử hình, và không con người nào có khả năng tự thoát khỏi hình phạt của tội lỗi hoặc làm sạch lòng mình khỏi những điều xấu xa. Cả thiên sứ lẫn loài người đều không chuộc nổi tội lỗi. Chỉ trong Đấng Christ mới có thuốc chữa tội lỗi. Chỉ Đấng Christ mới đủ sức cứu tội nhân khỏi kết cục đang chờ đợi người đó. "Vì tiền công của tội lỗi là sự chết" (Rô-ma 6:23). "...Linh hồn nào phạm tội thì sẽ chết" (Ê-xê-chiên 18:4). "Chẳng có người nào chuộc được anh em mình, hoặc trả giá chuộc người đó cho Đức Chúa Trời (ND)" (Thi thiên 49:7). "Hoặc bạc hoặc vàng của chúng nó đều không thể giải cứu chúng nó trong ngày thịnh nộ của Đức Giê-hô-va" (Sô-phô-ni 1:18).

Sự cứu rỗi duy nhất của con người là ở Gô-gô-tha, có nghĩa là "Chỗ cái sọ". Hai bên có những kẻ gian ác bị đóng đinh, còn ở giữa họ là Một Người đội vòng gai. Máu tuôn ra từ tay và chân của Ngài, chảy ra từ mạng sườn bị đâm thủng, nhỏ xuống mắt của Ngài, - còn những kẻ đứng trước mặt thì chế diễu và nhạo báng Ngài.

Nhân vật đó là ai, cái người đang chịu nhục hình kia, Người đó là ai, cái người mà những kẻ khác đang cố hạ nhục và giết chết kia ? Đó là con Đức Chúa Trời, là Chúa bình an, là sứ giả từ trời xuống, Ngài được giao nhiệm vụ xuống cái thế gian chìm sâu trong tội lỗi này. Đó là Đấng mà trước mặt Ngài các thiên sứ phải phủ phục, phải che mặt không dám nhìn. Vậy mà Ngài vẫn đang treo trên kia, đẫm máu và bị ruồng bỏ trên thanh khỗ ghê sợ của thập tự giá.

Cái gì đã dẫn Ngài đến cái nơi khủng khiếp này ? Ai bắt Người đến để dạy chúng ta tình yêu thương phải chịu cực hình hãi hùng kia ? Chính là bạn và tôi, vì tại tội lỗi của bạn và của tôi mà Jêsus Christ đã bị đóng đinh trên thập tự giá. Vào khoảnh khắc không quên đó nhân loại đã chìm đắm trong đêm đen của tội lỗi, đã tụt sâu xuống tận đáy vực, đã đến tận cùng của nó. Chẳng có gì lạ là cả mặt trời cũng chịu không nổi và phải che mặt !

Hỡi ôi, Cứu chúa tôi đẫm máu,

Chúa tôi đã chết,

Ngài đã phó mình

Vì tôi chịu đau đớn !

Trên thập tự, tội lỗi đã thành công không ngờ. Nhưng nhát búa đóng đinh Jêsus cũng chính là nhát búa mở cánh cổng tự do cho loài người. Đỉnh điểm của nhục nhã và thù hận lại trở thành đỉnh điểm thương xót và tha thứ của Thượng Đế. Qua cái chết của Chiên con của Đức Chúa Trời trên thập tự, tội lỗi của tất cả những ai tin vào Đấng Christ cũng đã bị đóng đinh. Cái chết của Ngài trở thành nền tảng cho niềm hy vọng của chúng ta, thành lời hứa chiến thắng cho ta. Chính Đấng Christ đã dùng thân thể mình gánh tội lỗi của chúng ta lên cây gỗ. Ngài đã chết thay cho ta và đã sống lại. Ngài đã chứng tỏ mọi lời hứa của Đức Chúa Trời ban cho loài người là thành thật; và nếu hôm nay bạn lấy đức tin tiếp nhận Đấng Christ, bạn cũng sẽ giật đứt gông xiềng tội lỗi, được tự do và được biết chắc rằng nhờ tình yêu của Jêsus Christ, linh hồn bạn đã được rửa sạch tội lỗi và được cứu thoát khỏi hư mất.

 

(xin giới thiệu với các bạn một vài chương từ bản dịch khác so với bản dịch đã được phát hành với tựa đề "Bình an trong Thượng Đế" của Billy Graham, do Đình Hưng và Hải Nam dịch từ bản tiếng Nga - Tinlanh.Ru)



© 1999-2017 Tinlanh.Ru