Vì A-đam là thủy tổ của cả loài người. Nguồn nước trong vắt phun lên từ đất, và nguồn ấy được phép lựa chọn, muốn làm con sông chảy qua những đồng cỏ màu mỡ tuyệt đẹp, hay làm dòng nưới mờ đục muôn đời sói vào vách đá và ngầu bọt giữa những hẻm núi tăm tối sâu thẳm - lạnh lẽo và bất hạnh cho chính mình, mà cũng chẳng mang niềm vui và phù sa cho đất xung quanh.
Không thể chê trách Đức Chúa Trời về tình trạng bi thảm đến tận ngày nay của nhân loại. Lỗi là ở A-đam - chính ông đã được quyền lựa chọn, nhưng lại thích những lời giả dối của kẻ cám dỗ hơn là chân lý của Đức Chúa Trời. Lịch sử nhân loại từ lúc này và cho đến tận ngày nay chính là chuyện những cố gắng vô ích của con người nhằm lấy lại cho mình địa vị đã mất khi A-đam sa ngã.
- Nhưng thế là không công bằng ! - bạn sẽ nói vậy. - Sao ngày nay chúng tôi lại phải chịu khổ chỉ vì con người đầu tiên đã phạm tội trong buổi bình minh của các thời đại ? Sao nhân loại trong suốt thời gian đó không lành mạnh lên được ? Tại sao chỉ vì thế mà ta bị trừng phạt cả đời ?
Ta hãy trở lại câu chuyện dòng sông - dòng sông lạnh lẽo, tăm tối chảy dưới đáy một khe đá sâu thẳm và trần trụi. Sao sông không trở lại với những đồng cỏ đẹp đẽ, ấm áp nơi đầu nguồn ? Sao sông không rời bỏ con đường tăm tối và không trở thành dòng nước lấp lánh hạnh phúc như nó vốn là (khi lần đầu chảy ra từ lòng đất) đi ?
Nó không làm thế, vì không làm nổi. Bản thân nó không đủ sức để làm lại sự việc đã rồi kia. Nếu đã rời bỏ bến bờ cát trắng để đến với tối tăm của khe núi, nó không thể lại tự vươn đến miền đất tươi sáng đầy ánh nắng kia nữa. Nhưng phương tiện cho nó vươn lên là có, con đường nằm ngay kề bên, nhưng con sông không hiểu và không biết cách sử dụng con đường ấy.
Phép lạ bao giờ cũng có thể xảy ra để đưa dòng sông nhân loại từ đau thương trở lại thung lũng bình an ấp áp, nhưng nhân loại hoặc không nhìn thấy, hoặc không muốn điều đó. Loài người nghĩ mình không thể làm gì khác ngoài việc tiếp tục con đường khổ ải đến chừng nào nó dẫn họ tan biến trong biển tận diệt.
Câu chuyện dòng sông là lịch sử của con người từ thuở A-đam - con sông uốn lượn, phân nhánh nhưng chỉ chìm sâu hơn vào bóng tối khủng khiếp. Và mặc dù chúng ta lớn tiếng kêu cứu - cũng như A-đam, ta vẫn cứ chọn con đường sai lạc. Trong tuyệt vọng ta đến với Đức Chúa Trời và trách Ngài về hoàn cảnh hiện tại. Chúng ta nghi ngờ sự khôn ngoan của Ngài và tính công bằng của các phán quyết Ngài. Trong lòng thương xót và tình yêu của Ngài ta lại thấy điều xấu xa.
Chúng ta quên mất rằng A-đam vốn đứng đầu cả loài người, cũng như ở nước ta tổng thống đứng đầu mọi công dân. Tổng thống xử sự thế nào thì cả dân Mỹ xử sự như thế cùng với ông. Khi tổng thống quyết định, quyết định đó có hiệu lực ngang với quyết định của cả dân tội.
A-đam đứng đầu cả nhân loại. Khi ông sa ngã, khi ôngkhuất phục trước cám dỗ, cả những thế hệ chưa ra đời cũng sa ngã cùng ông, vì Kinh Thánh chỉ rất rõ rằng tội lỗi của A-đam sẽ bị trừng phạt ở từng dòng dõi của ông nữa. Chúng ta tất cả đều biết quá rõ sự thật cay đắng trong những dòng Kinh Thánh mô tả bi kịch định sẵn cho ta chỉ vì hành vi của A-đam. "...Đất sẽ bị rủa sả vì ngươi; trọn đời ngươi phải chịu khó nhọc mới có vật đất sanh ra mà ăn. Đất sẽ sanh chông gai và cây tật lê, và ngươi sẽ ăn rau của đồng ruộng; ngươi sẽ làm đổ mồ hôi trán mới có mà ăn, cho đến ngày nào ngươi trở về đất, là nơi mà có ngươi ra; vì ngươi là bụi, ngươi sẽ trở về bụi" (Sáng thế ký 3:17,19).
Còn với Ê-va, Đức Chúa Trời phán : "Ta sẽ thêm điều cực khổ bội phần trong cơn thai nghén; ngươi sẽ chịu đau đớn mỗi khi sanh con; sự dục vọng ngươi phải xu hướng về chồng, và chồng sẽ cai trị ngươi" (Sáng thế ký 3:16).
Nói cách khác, do tội lỗi ban đầu của A-đam, đất đai vốn trước kia chỉ sản sinh những thực vật có ích và tuyệt đẹp giờ đây cho ra cả cây tốt lẫn xấu. Con người trước kia dạo chơi trong vườn và chỉ cần với tay là hái được thức ăn cho mình, vốn chẳng cần quần áo, chẳng cần giường nằm, bây giờ phải lao động cả đời để nuôi mình và nuôi gia đình. Người đàn bà, vốn trước kia vô tư lự nhất, thì giờ đây bị bệnh tật và đau đớn đè nặng; và cả đàn ông lẫn đàn bà đều phải chịu hình phạt cái chết thể xác cũng như tinh thần.
Tội lỗi xâm nhập vào nhân loại qua A-đam, và từ đó đến nay nhân loại vẫn cố thoát khỏi nó một cách vô hiệu. Kinh Thánh dạy rằng Đức Chúa Trời đã cảnh cáo A-đam trước khi ông phạm tội rằng nếu ông ăn trái cây biết điều thiện điều ác, ông sẽ chết. Kinh Thánh cũng nói rằng Đức Chúa Trời đã định trước cho A-đam và Ê-va sẽ sinh con cháu, thêm nhiều lên và sống khắp trên đất. Dù chính A-đam và Ê-va được dựng nên theo tượng của Đức Chúa Trời, sau khi sa ngã họ chỉ truyền lại được cho con cháu tượng riêng của mình. Hậu quả là ngay Ca-in với A-bên cũng đã nhiễm căn bệnh tội lỗi chết người thừa hưởng từ cha mẹ và truyền lại cho mọi thế hệ sau. Chúng ta tất cả đều là tội nhân di truyền, và dù ta cố gắng đến mấy cũng không tránh khỏi tội lỗi mình.
Chúng ta dùng nhiều phương cách để trả lại cho mình địa vị mà A-đam đã làm mất. Chúng ta thử dùng học vấn, triết học, tôn giáo, chính trị để quẳng cái gánh nặng tội lỗi và thói hư tật xấu đi. Chúng ta cố dùng trí óc bị tội lỗi giới hạn của mình để thực hiện những công việc mà Đức Chúa Trời đã định cho con người phải thực hiện khi có một tri thức chỉ trời mới cho được. Những động cơ tốt đẹp hướng dẫn ta, và một vài cố gắng của ta là đáng khen, song tất cả những thứ đó còn xa, còn xa mới đạt được mục tiêu. Mọi tri thức, phát minh của ta, toàn bộ sự phát triển và những kết hoạch háo danh thúc đẩy ta tiến bộ đều rất ít ý nghĩa, chừng nào ta chưa quay về điểm xuất phát của con đường. Bởi vì chúng ta vẫn lặp lại sai lầm của A-đam - chúng ta vẫn cố dùng quyền riêng và lực riêng để làm vua, thay vì vâng phục luật lệ của Đức Chúa Trời.
Trước khi bảo Đức Chúa Trời là không công bằng hay không đúng vì đã để tội lỗi thống trị thế gian, ta hãy xem xét tình thế một cách kỹ lưỡng hơn. Với lòng thương xót vô hạn, Đức Chúa Trời đã sai Con Ngài đến để chỉ cho ta lối thoát khỏi tình trạng khốn khó. Ngài sai Con của mình để bắt Con ấy chịu đúng những thử thách mà trước đó A-đam đã chịu, và chiến thắng chúng. Sa-tan cám dỗ Jêsus Christ hệt như đã cám dỗ A-đam. Ma quỉ hứa cho Jêsus Christ quyền lực và vinh quang, nếu Ngài chối bỏ Đức Chúa Trời, cũng hệt như nó đã hứa với A-đam qua miệng Ê-va.
Nhưng có sự khác biệt rất lớn trong cách Jêsus Christ chống trả cám dỗ ! Khi ma quỉ cho Ngài xem các nước thế gian và hứa cho Ngài toàn bộ sự vinh hiển của các nước ấy nếu đi theo nó chứ không phải theo Đức Chúa Trời, Đấng cứu tinh của chúng ta đã nói : "...Quỉ sa-tan, ngươi hãy lui ra ! Vì có lời chép rằng : Ngươi phải thờ phượng Chúa là Đức Chúa Trời ngươi, và chỉ hầu việc một mình Ngài mà thôi" (Ma-thi-ơ 4:10). Ngài hoàn toàn đắc thắng trước kẻ cám dỗ và tỏ cho mọi dân tộc cũng như mọi thế hệ loài người về sau biết bản chất vô tội của mình.
Theo sự yếu đuối cũng như bản tính xấu xa của mình, chúng ta đã chứng tỏ mình là con cháu thật của A-đam và ngoan ngoãn nối bước ông. Chúng ta có thể rủa sả A-đam, nhưng vẫn cứ bắt chước ông !
Không có ngày nào mà chúng ta không phải chịu những cám dỗ y như A-đam đã từng chịu. Không có ngày nào mà ta không có dịp lựa chọn giữa những hứa hẹn xảo quyệt của ma quỉ với Lời thực của Đức Chúa Trời. Ngày nào chúng ta cũng có cơ hội chính mình tiến gần hơn và giúp người khác cũng tiến gần hơn tới khu vườn thực và tuyệt đẹp mà A-đam đã coi thường.
Ta nhung nhớ một ngày mà thất vọng, bệnh tật và cái chết tan biến, - nhưng giấc mơ ấy không thể nào thành hiện thực chừng nào chúng ta vẫn còn là những con cháu chưa được tái sinh của A-đam. Chúng ta phải tính sổ cách nào đó với những tội lỗi của mình. Trong các chương sau chúng ta sẽ thấy Đức Chúa Trời đã làm gì để giải quyết những vấn đề cơ bản của nhân loại.
Từ đầu các thời đại cho đến ngày nay, tham muốn quyền lực một cách vô đạo và quyết tâm sử dụng quyền tự do lựa chọn của mình nhằm các mục đích cá nhân vị kỷ đã dẫn con người đến bờ vực của sự hư mất. Tàn tích của nhiều nền văn minh rải rác khắp bề mặt trái đất là bằng chứng không lời về sự bất lực của con người trong việc xây dựng trong thế giới này một điều vĩnh cửu mà không cần đến Đức Chúa Trời. Những tàn tích mới, những bất hạnh mới vẫn tiếp tục xuất hiện hàng ngày, vậy mà con người vẫn cứ đi xa nữa trên con đường nguy hại của mình.